PHẦN 5

LÊN ĐƯỜNG

--- o ---

Có ‘‘Tấm Bản Đồ’’ chính xác trong tay,  có Con Đường đi của Phật , có Kiến Giải chân chính ...chỉ còn “LÊN ĐƯỜNG” ngay trong kiếp này vào cuộc hành trình đi đến Bờ Giác ! Mượn Thân làm chiếc xe hay con  thuyền để đi, Tâm là Con Đường, Bản Đồ Bát Nhã làm Kim Chỉ Nam, Gươm Tuệ đánh dẹp Vô Minh, Giới Luật diệt trừ Ma Chướng. Vì Thân này là Vô Ngã, giả tạm không thật, mượn Đất Nước Gió Lửa của Thế Gian làm Thân, nên chỉ sống "thiểu dục tri túc", tạm đủ để làm "Bè" qua sông. Ngũ Uẫn (Sắc ThọTưởng Hành Thức) là giai không, nên không cần phải theo đuổi bám víu để bị cột trói. Sáu Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) là Sáu Tên Giặc Cướp đầy tham ác chiếm đóng Sáu Cửa của Căn Nhà Thân Tâm  (Sáu Căn: Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý) xiềng xích Chủ Nhà trong  Luân Hồi Nghiệp Báo. Do đó, phải biết cách "Chăn Trâu" đuổi Sáu Tên Giặc Cướp ra khỏi Căn Nhà Thân Tâm, luôn giữ cho Thân Tâm an định đạt tới chỗ Vô Vi... “LÊN ĐƯỜNG” không phải cầu Phật mà chỉ cầu Tâm, bắt đầu nơi Tự Tâm hướng về Gốc để đạt tới cái TÂM thẳng tận đầu nguồn : Tâm thấu suốt Tâm, trong suốt rỗng rang không có một vật ; cái Tâm phi Tâm phi Phật phi vật phi phàm, vô ngã chủ vô năng sở vô sở trụ… tương ưng với cái RỖNG KHÔNG BÁT NHÃ, cái RỖNG THÊNH KHÔNG THÁNH của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, cái TUYỆT HỌC VÔ VI của Thiền Sư Huyền Giác, CÁNH CỬA  RÕ CA DIẾP ở tận đầu nguồn Tâm, hay cái Tâm VÔ NIỆM của Lục Tổ Huệ Năng, cái Tâm VÔ TÂM của Thiền Sư Hoàng Bá…

Trên đường đi tìm Đạo, luôn luôn nhìn “Bản Đồ” mà đi thẳng nhắm hướng “Mục Tiêu Rốt Ráo” mà đi, không quanh co hoặc ghé vào Bến Bãi Lục Trần vì rất dễ bị cám dỗ , hoặc lạc đường lạc hướng quên mất đường đi. Khi đó uổng phí thời gian, nhiều khi uổng phí cả cuộc đời hay nhiều đời nhiều kiếp lạc vào Mê Cung của Nghiệp Chướng Vô Minh không biết đường trở về. Nếu gặp ngã ba đường khó xử hoặc trở ngại trên đường đi, gặp ách tắc dọc đường thì lập tức soi lại Bản Đồ tìm phương hướng  chính xác rồi mới tiếp tục đi, như thế mới không lạc và có niềm tin vững chắc là sẽ đến nơi. Như vậy mới thấy rằng Tấm Bản Đồ Lên Đường là rất cần thiết, không thể thiếu trong suốt cuộc hành trình đi tìm Đạo. Nó là Đại Thần Chú, Vô Thượng Chú, Vô Đẳng Đẳng Chú trừ hết mọi chướng ngại trên đường đi. Phật, Tổ, Thiền Sư nhờ nó mà đạt Chánh Đẳng Chánh Giác. Nó linh ứng vi diệu, Đức Phật gởi gắm nhiều Mật Nghĩa thâm sâu, là Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” còn gọi là Tấm Bản Đồ “Sắc Không” hay “Sắc tức thị Không”, Tấm Bản Đồ “Không” hay “Chân Không” hay Tấm Bản Đồ “Mộng” vì nó đã được trắc nghiệm hay “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao, và cái Mục Tiêu Rốt Ráo của Tấm Bản Đồ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Còn Tấm Bản Đồ ‘‘Như Lai Địa’’ với cái cửa ‘‘Vô Vi’’ trong Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Huyền Giác, Tấm Bản Đồ “Rỗng Thênh Không Thánh” với cái cửa “Trực Chỉ Nhân Tâm” hay‘‘Sáu cửa vào động Thiếu Thất’’ của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Tấm Bản Đồ “Bổn Lai Vô Nhất Vật” với cái cửa ‘‘Vô Niệm’’ của Lục Tổ Huệ Năng, Tấm Bản Đồ ‘‘Vô’’ với cái cửa “Vô Môn Quan” của Thiền Sư Huệ Khai…v…v… tuy cơ duyên có khác, nhưng thực ra thì cũng đồng điệu như một, đều lấy Tâm làm Tông Chỉ và cửa Không làm cửa Pháp, chỉ “trực tiếp” vào Cửa, chỉ “tận gốc” vào đầu nguồn Tâm gốc Tánh để đạt Đạo: “Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật”.
Chẳng hạn như,  nếu Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” chỉ trực tiếp “Sắc tức thị Không” lấy Tâm làm Tông để đạt tới Ma Ha Bát Nhã  như ngay trong cái tựa Kinh (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) thì đã ẩn chứa lời khai thị trực tiếp của Đức Phật: lấy Tâm làm con đường hay là Tông Chỉ  để đi suốt đường Tâm: đó là cái ( Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa “Tâm”) . Nghĩa là từ Tâm Ngọn đi suốt đường Tâm cho đến Tâm Gốc tận bờ bên kia, ở đây Đức Phật "chỉ thẳng": không nói đến Tâm Ngọn mà chỉ ngay cái Gốc tức là Tâm “Ba La Mật Đa” (cũng là cái Cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác), huốt tận đầu nguồn là Ba La Mật Đa, tới đây thì Tâm biến dạng thành Phi Tâm, tức là TÁNH, tức là Ma Ha Bát Nhã. Cũng có thể gộp lại cái (Ma Ha Bát Nhã) và cái (Ba La Mật Đa) và khi đó là cái Tâm “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”, là cái Tâm rốt ráo cùng tột là Tâm phi Tâm, tức là Tánh. Vì Tâm này là Tâm "Phi", tức không còn là Tâm, là cái rốt ráo tận cùng, tức là cái: "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa". Còn là Tâm thì còn là Sắc, đạt tới Tánh thì Phi Tâm Phi Sắc, tức là Không, là “Sắc tức thị Không”.
Tổ thứ tư Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta) khi truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ thứ năm là Đề Đa Ca (Dhirtaka) có nói bài kệ: 

  “Tâm tự bổn lai Tâm                 
    Bổn Tâm phi hữu Pháp            
    Hữu Pháp hữu Bổn Tâm          
    Phi Tâm phi Bổn Pháp”. 
   (Tâm tự xưa nay Tâm,
    Bổn Tâm chẳng có Pháp.
    Có Pháp có Bổn Tâm,
    Chẳng Tâm chẳng Bổn Pháp).

    Cái Tâm xưa nay vẫn là vậy (Tâm tự bổn lai Tâm). Bổn Tâm là cái Tâm “Ba La Mật Đa” huốt tận đầu nguồn tức là Tánh và ở trên Tánh thì không có một Pháp để thấy (Bổn Tâm phi hữu Pháp), đây là mặt Thể của Tánh. Nhưng nếu thấy có Pháp tức là có cái Bổn Tâm (tức là Tánh hay Tự Tánh) vì Bổn Tâm hay Tánh hay Tự Tánh tuy “Rỗng Thênh Không Thánh” nhưng lại “hay sanh muôn Pháp” là cái Chứng Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng (Hữu Pháp hữu Bổn Tâm), đây là mặt Dụng của Tánh. Cuối cùng cái Bổn Tâm này hay Tánh hay Tự Tánh là Tâm mà Phi Tâm và ở nơi cái Tâm Phi Tâm không có một Pháp, cả đến cái Pháp Gốc (Bổn Pháp) để sinh ra Pháp cũng không có, bởi vì có Tâm mới có Pháp còn cái Tâm Phi Tâm này hoàn toàn không có một Pháp để thấy dù là Pháp Gốc. Tâm này là Tâm (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa). Và một khi Ngộ Nhập thì : “Phi Tâm phi Bổn Pháp” tức không còn Tâm và một Pháp cũng không có: “Tâm Pháp song vong Tánh tức Chân” tức là cái “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Tới đây là chỗ rốt ráo tận cùng: "Phi Sắc Phi Tâm Phi hạnh Nghiệp", đạt tới "Không Tâm" và "Không Tâm" là Đạo, là cái Một tột cùng, là Chơn Nhất, là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa".
Tấm Bản Đồ “Chứng Đạo Ca” với Cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác thì cũng chỉ ngay cái Gốc: “Sắc tức thị Không”, là “Chiếc Cầu nối” giữa Sắc và Không, giữa Tâm và Tánh, giữa Mê và Ngộ, giữa Thế Gian và Bát Nhã Chân Như hay Như Lai Niết Bàn…là cái Bí Quyết mà Thiền Sư Huyền Giác đã khai thị, hay cái kinh nghiệm Chứng Ngộ của Ngài.  Trước đây Ngài phạm lỗi lầm là học nơi Cái Ngọn và học vô số chữ nghĩa văn tự suông, uổng phí cả một đời người, đáng bị Phật quở trách:

“Ngô tảo niên lai tích học vấn,
   Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận.
   Phân biệt danh tướng bất tri hưu,
   Nhập hải toán sa đồ tự khốn.
   Khước bị Như Lai khổ ha trách,
   Sổ tha trân bảo hữu hà ích.
   Tòng lai tắng đắng giác hư hành,
   Ða niên uổng tác phong trần khách”. 
(Ta sớm bao năm chuyên học vấn,
  Từng viết sớ sao tìm kinh luận,
  Phân biệt danh tướng mãi không thôi,
  Vào biển đếm cát tự chuốc hận,
  Quả đáng bị Như Lai quở trách,
  Châu báu của người có gì ích?
  Lâu nay đắng đót rõ công suông,
  Uổng bấy làm thân phong trần khách!)

Thiền Sư Nguyên Thiều (1648-1728), tông Lâm Tế đời thứ 33,trước khi tịch có bài kệ chỉ rõ cái Tánh, cái Vô Vi hay Viên Ngọc Ma Ni mà Ngài đang Ngộ Nhập, cả Thể và Dụng, Vô Vi và  cửa Vô Vi, Tánh và Tâm. ‘‘Viên Ngọc’’ trong suốt rỗng lặng như Gương là Thể, là Tánh, là Bát Nhã hay là cái Vô Vi . Cái ‘‘Ánh Sáng’’của Viên Ngọc : "Sáng Sáng Rõ Ràng"  là Dụng , là Tâm, hay cái cửa Vô Vi: 

   “Tịch tịch Kính vô ảnh               
     Minh minh Châu bất dung          
     Đường đường Vật phi vật           
     Liêu liêu Không bất  không”.      
  (Lặng lặng Gương không ảnh
   Sáng sáng Ngọc  không  hình
   Rõ ràng vật không vật
   Rỗng rang không chẳng không). 

Tấm Bản Đồ “Niêm Hoa Vi Tiếu” hay “Bổn lai Vô Nhất Vật”…thì cũng vậy. Nếu nhận ra được cái Sáng Rõ hay cái Ánh Sáng Bát Nhã ngay trên Sắc kể cả ngay nơi Hư Không tức là đã tới Cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác, ngay nơi đó nhảy thẳng vào Đất Như Lai thì: “Sắc tức thị Không” và cái Không này là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Rốt ráo lại, tất cả những Tấm Bản Đồ của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư có thể gọi là Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” hay Tấm Bản Đồ “Sắc tức thị Không”, vì mục tiêu cuối cùng là đạt tới cái “Không” hay cái “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” thấy TÁNH thành PHẬT.

Trong giấc Mộng Ban Đêm, cả thế giới Hữu Vi gồm sơn hà đại địa và mỗi chúng sanh đều chỉ là cái Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ Mê trên giường biến chiếu ra. Thân và Tâm trong Chiêm Bao không có thật, chỉ là Bóng Ảo, do đó hoàn toàn thụ động và tùy thuộc vào cơn Mộng: Do Tâm Mê điều khiển, do đó không có con đường Giải Thoát. Trong  giấc Mộng Ban Ngày, có Thân Tâm với đủ Sáu Căn và Bát Thức nên hoàn toàn chủ động và với Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” trong tay, thì con đường Giác Ngộ  đi tới Giải Thoát không phải là không thực hiện được một khi đã phát Tâm Bồ Đề. Phật, Tổ và Thiền Sư đã Chứng Ngộ trước và chỉ đường rõ ràng không thể nào lầm lẫn được:

“Tâm thị Căn, Pháp thị Trần,
   Lưỡng chủng do như kính thượng ngân.
   Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện,
   Tâm Pháp song vong Tánh tức Chân”.
                                      (Thiền Sư Huyền Giác).
    (Tâm là Căn, pháp là Trần,
Thảy đều ngấn bụi ám gương trong.
Bao giờ ngấn hết gương trong lại,
Tâm Pháp cùng quên, Tánh rõ Chân)

Sáu Căn là Tâm, Sáu Căn nói chung cũng là Thân. Do đó Thân cũng chính là Tâm, tuy Thân chỉ là Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) nhưng không phải là loại Tứ Đại vô tri giác. Bởi Tâm là vi diệu, đủ mọi hình trạng biến hóa từ Gốc cho tới Ngọn. Pháp Trần là Bụi Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) bám vào Sáu Căn làm cho Gương Tâm bị che mờ. Bao giờ “Ngấn Bụi” bên Sáu Căn không còn dính mắc thì Gương Tâm sáng lại, soi chiếu khắp 10 phương. Lúc đó Tâm và Pháp hay Căn và Trần đều Không, nghĩa là Sáu Căn không chấp dính Pháp Trần hay Bụi Trần và không khởi niệm đạt đến Tâm Không hay TâmVô Niệm niệm thì Phật Tánh hiện bày, đạt Đạo Giải Thoát.
Điều này trong Tấm Bản Đồ Mộng đã chỉ rõ: Trong Mộng, Thân Tâm không có, Pháp Trần cũng không có, chỉ là Bóng Ảo, khi Thức Dậy thì cả Tâm và Pháp trong Mộng đều là Không do Cái Thân Thật trên giường biến chiếu ra, Cái Thân Thật này dụ cho Tánh hay Bát Nhã. Tấm Bản Đồ Bát Nhã cũng chỉ y như vậy: “Vô Sắc, Vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Vô Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, Vô Sằc Thinh Hương Vị Xúc Pháp…” . Nghĩa là Tâm và Pháp đều không có, cho nên không chấp dính và khi đó thấy Tánh thành Phật.

Thân Tâm của chúng sinh giống như Chiếc Máy Truyền Hình có thể xem được 7 Đài (channels) tương ứng với 7 thế giới khác nhau. Sáu Đài từ 1 tới 6 là thế giới trong Mê có tần số sóng hay Nghiệp Thức khác nhau, bao gồm thế giới của Địa Ngục, Ngạ quỷ , Súc sanh, A Tu La, Nhân và Thiên. Sáu thế giới này đều có đầy đủ hình ảnh , sắc tướng, âm thanh và hoạt động riêng biệt: (Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác). Cả sáu thế giới trong Mê  đều có Tướng vật chất và Tướng không gian khác nhau vì khác tần số sóng hay khác Nghiệp, nên không thể liên lạc hoặc nhìn thấy được nhau, trừ một vài thế giới có tính năng đặc biệt như thần thông, nhập định…Một Đài số 7 là thế giới trong Ngộ có tần số sóng là “ Không”; không có Nghiệp; Không có một vật để thấy cho nên không có hình tượng và đứng yên bất động: (Vô, Vô Tướng, Vô Tác); là thế giới của Niết Bàn hay Bát Nhã Chân Như. Đối với Thân Tâm của chúng sinh Người, thế giới loài Người hiện ra trên Màn Ảnh Tâm Thức gồm tất cả nhà cửa, sơn hà, đại địa, vật chất sum la vạn tượng của thế giới người. Thân Tâm người tức Chánh Báo, thế giới loài Người tức Y Báo có cùng một tần số sóng hay cùng Nghiệp nên cùng hiện hữu, cùng thấy, nghe, hiểu, biết, xúc chạm với nhau, ngay cả có cùng một thân, mượn nhau làm thân vì cùng có 4 nguyên tố ( Đất, Nước, Gió, Lửa) giống y nhau chỉ khác nhau là ở trên Tướng:   “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Thân của tất cả chúng sinh và thân của cả sơn hà đại địa, cả vũ trụ là Một là (Đất, Nước, Gió, Lửa) . Nhưng (Đất, Nước, Gió, Lửa) cũng  là Một cùng một gốc là do một “Dị Điểm” trong vụ nổ Big Bang, là một niệm Vô Minh bất giác nổi lên giữa biển Chân Không Bát Nhã.    

“Vô Minh thật Tánh tức Phật Tánh
  Ảo hóa không thân tức Pháp Thân”.
                         (Thiền Sư Huyền Giác).
Cái Tánh thật của Vô Minh sinh ra Big Bang cũng là Phật Tánh tức là Không. Cái Ảo Hóa là chúng sinh và vạn vật vũ trụ này thật sự không có Thân tức là Pháp Thân Phật, tức là Không. Tất cả tại vì Mê vì nhìn bằng con Mắt Hữu, con mắt của Nghiệp Thức chúng sinh nên thấy là có Thân. Ở trong màn ảnh Chiếc Máy Truyền Hình, thấy có Thân có người, có nhà cửa cầu đường núi sông, có âm thanh sắc tướng và mọi hoạt động. Nhưng tất cả chỉ là Bóng Ảo không thật, khi tắt máy hoặc ngưng tần số sóng vô tuyến thì tất cả trở về không. Ở trong giấc Chiêm Bao, chúng sinh thấy có Thân, thấy có vũ trụ vạn vật đầy ắp trong Hư Không, nhưng khi thức dậy tất cả đều không chỉ là Ảo Hóa. Nếu không chấp dính với Sắc Trần, biết Thân Tâm này là giả là Chiêm Bao, đạt đến Thân không, Tâm không thì xem như được giải thoát :

“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
  Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
  Tam giới mang mang Tâm liễu liễu
  Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”.
(Xoay mình một ném vượt ra lồng
  Muôn sự đều không ,nhập mắt không
  Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
  Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
                                   (Tuệ Trung Thượng Sĩ). 
Khi Thân Tứ Đại thoát ra khỏi cái lồng Sắc Trần của thế gian, giống như con chim hồng được thả tự do, bay bổng vào Hư Không, cả Thân Tâm hòa nhập vào Không thì liền nhìn sự vật với con Mắt Không (con Mắt Bát Nhã)  thấy mọi vật là Không, mặc tình du hí Tam Muội. Mộng Ban Đêm thấy Trăng , Trăng lặn về Tây rồi thì Mặt Trời của sự Giác Ngộ mọc lên ở phương Đông, nhìn thấy đúng sự thật tức Chân Lý. 

Bồ Đề Đạt Ma cũng từng khai thị :   

“Thân tận Vô Minh tận,    
  Thọ báo khước lai kỳ. 
  Trí thân như huyễn hóa
  Cấp cấp ngộ “Vô Vi”.

(Không có Thân thì Vô Minh không đến được,
  Do đó, không có thọ Nghiệp
  Ngươi hãy nhớ rằng Thân ngươi là huyễn mộng
  Hãy mau mau ngộ cái “Vô Vi” này).

Tấm Bản Đồ Bát Nhã hay Tấm Bản Đồ Mộng đã chỉ rõ ràng lời khai thị của Tổ Đạt Ma: “Vô Vô Minh, diệc Vô Vô Minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.” trong Mộng cũng vậy: không có Vô Minh mà cũng không có Vô Minh tận, không có lão tử mà cũng không có lão tử tận…vì trong Mộng nếu thấy có Vô Minh và có Thân thì chỉ là cái Bóng giả tạo không có thật, khi Thức Dậy thì cái Vô Minh và cái Thân rõ ràng là không có, mà chỉ có cái Thân Thật đang nằm trên giường, dụ cho Pháp Thân, dụ cho Bát Nhã hay cái Vô Vi mà Tổ Đạt Ma đã khai thị: “Cấp cấp ngộ Vô Vi”.

Do đó dựa vào Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” hay Tấm Bản Đồ “Sắc tức thị Không” hay Tấm Bản Đồ “Mộng” này thì sự thật là Thế Giới hay cái Vũ Trụ này không có, và cái nguồn gốc sinh ra cái Vũ Trụ này là cái “Dị Điểm” Big Bang cũng không có, mà chỉ là “huyễn mộng”, vì tất cả chúng sanh đang “mở mắt chiêm bao” nên thấy có, là cái thấy của con mắt Nghiệp Mộng của chúng sanh Người. Đối với chúng sanh các cõi khác nhau như cõi A Tu La hay Ngạ Quỹ, rất có thể họ cũng  “mở mắt chiêm bao” và cũng thấy có cái Big Bang sinh ra Vũ Trụ và Thế Giới của họ. Thật ra tất cả đều là Mê, đều là Chiêm Bao, và chính những cái Big Bang như thế là cái trò Ảo Thuật do Nghiệp Lực hay Tâm Mê tạo ra bằng cách huyễn hóa. Do đó gỡ bỏ cặp kính Nghiệp hay cái Tâm Mê thì mới thấy được cái Chân. Big Bang đã không có, do đó nguyên tử Hydrogen vật chất cũng không có thì Tứ Đại : Đất, Nước, Gió, Lửa không có. Đất, Nước, Gió, Lửa đã không có thì làm gì có cái Thân Tâm chúng sinh (tức Chánh Báo) và thế giới vũ trụ vật chất của loài Người chúng sinh này hiện hữu (tức Y Báo)…Do đó, Thân Tâm và Pháp Giới đều là Không :

“Tâm Pháp song vong, Tánh tức Chân”.
  (Tâm và Pháp đều không, Tánh hiện bày).
                                (Thiền Sư Huyền Giác).
Trường hợp của Thiền Sư Huyền Giác, Ngài ngộ nhập thẳng vào Tánh từ cái cửa Vô Vi :“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn”. Nghĩa là từ cái “Tuyệt Cùng” của mọi sự vật Căn và Trần, là “Cánh Cửa” Rõ thâm nhập vào cái "Sáng Rõ” tức “Mặt Trăng Thứ Hai” mà không dừng lại hay kẹt lại nơi cái Sáng Rõ hay “Mặt Trăng Thứ Hai” mà nhảy thẳng vào cái “Rỗng Thênh Không Thánh” hay cái “Không”: “Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”. Nhiều trường hợp người Ngộ Đạo tự biết được mình chỉ mới ngộ nhập ở Mặt Trăng Thứ Hai, chưa rốt ráo như trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng. Tuy nhiên cũng có trường hợp người Ngộ Đạo chỉ mới vào được ở Mặt Trăng Thứ Hai, đã vội vui mừng tưởng lầm rằng mình đã Ngộ Triệt. Vị Thầy đã Triệt Ngộ biết được điều này, có thể giúp và khai thị cho Vị này tháo gỡ những vướng mắc còn sót lại hoặc tiếp tục hành trì đến Triệt Ngộ. Thiền Sư Am Chủ Diệu Phổ chỉ rõ:
“Tâm Pháp song vong du cách Vọng,
   Sắc Trần bất nhị thượng dư Trần.
   Bách điểu bất lai Xuân hựu quá,
   Bất tri thùy thị trụ Am Nhân”.
  (Tâm, Pháp đều quên còn cách Vọng,
   Sắc, Trần như một vẫn thừa Trần.
  Trăm chim chẳng đến, Xuân cứ đến
  Nào biết ai  là người Trụ Am ?).

Còn nhớ Tâm, còn nhớ Pháp thì còn chướng ngại nhiều. Nhưng khi đạt đến chỗ Tâm Pháp đều quên nhưng vẫn còn cách một cái Vọng vi tế (tức là cái Bóng của Tâm và Pháp chưa dứt hẳn). Sắc Trần đã thấy không hai mà vẫn thừa Trần (tức cái Vọng Trần chưa dứt hẳn). Cho nên Ngộ mà chưa Triệt vì còn kẹt nơi cái Bóng của Sắc Trần, còn Tập Nghiệp dư. Vì Ngộ chưa Triệt nên không thấy mùa Xuân, vì Xuân đến mà  chưa thấy trăm chim. Chính đây mới là lúc để Tu Đạo, vì thấy được Đạo mới Tu Đạo. Còn chưa thấy Đạo mà Tu Đạo thì chưa biết được đường Tu của mình đúng hay là sai, nhưng sai mà hành trì suốt đời thì thật là uổng phí cả một đời người và có thể cả nhiều đời sau. Trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng, tuy đã Ngộ cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật”, nhưng chỉ mới vào được ở “Mặt Trăng Thứ Hai”:

“Bồ Đề bổn vô thọ
   Minh kính diệt phi đài
   Bổn lai vô nhất vật
   Hà xứ nhạ Trần ai”.

Cho đến khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang tới câu: “Ưng vô số sở trụ như sanh kỳ Tâm” thì mới hốt nhiên Đại Ngộ và khi đó Ngài tự thốt lên: “Không ngờ TỰ TÁNH hay sanh muôn Pháp…”. Trước đó Lục Tổ Ngộ cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật” chỉ là cái Sáng Rõ hay cái cửa Vô Vi. Về Lý thì xem như đã ngộ TÁNH là cái “Rỗng Thênh” không có một vật…lẽ ra là đã Ngộ Triệt?! Nhưng vì cái Sáng Rõ quá gần với TÁNH và hướng về TÁNH cho nên có thể nhận ra Bầu Trời Trong không có Vật của TÁNH. Có thể nói đứng trong cái Sáng Rõ mà Lục Tổ nhận ra được phần Thể của TÁNH, còn phần Dụng thì chưa thông. Đến khi nghe câu “Ưng vô số sở trụ như sanh kỳ Tâm” mới ngộ ra TÁNH thật sự. Vượt qua cái Sáng Rõ, nhập vào TÁNH, đứng trong TÁNH nhìn trở ra mới thấy được cái Dụng của TÁNH:  “Không ngờ TỰ TÁNH hay sanh muôn Pháp”. Chấp Dụng bỏ Thể thì không đạt Chân Lý, chấp Thể bỏ Dụng thì cái Chân Lý chưa hoàn hảo. Vào TÁNH thì phải thấy rõ luôn cái Dụng của TÁNH tức là TÂM giống như cái THÂN phải có đủ hai cánh tay Mặt và Trái tức Chân Không và Diệu Hữu. Như vậy thấy Chân Không Rỗng Thênh không một vật cũng chưa đủ, phải thấy luôn cả cái Diệu Hữu sinh ra Pháp Thế Gian, đi vào đời độ chúng với gót chân dính đất của Thế Gian mà không ô nhiễm.  Có thể phân tích cái Sở Ngộ của Lục Tổ qua ba lớp cửa . 1-Sơ Quan : khi đi bán củi  nghe Ông Viên Ngoại đọc Kinh Kim Cang, Ngài có Sở Ngộ đầu tiên. 2-Trùng Quan : khi đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giã gạo ở chùa trong 8 tháng, Ngài nhận ra cái cửa Sáng Rõ hay cửa Vô Vi. 3-Lao Quan : khi Ngũ Tổ giảng lại Kinh Kim Cang vào lúc canh ba với chỉ một mình Lục Tổ , Ngài thâm nhập vào cửa Không là Triệt Ngộ. Thiền Sư Sư Bị (Tông Nhất) khi thấy vị Sư Huynh là Tuyết Phong chưa Ngộ Triệt nên đã nhiều lần nhắc nhở khéo: “Hòa Thượng gót chân chưa dính đất”. Một khi đã Triệt Ngộ thì dù có đi vào đời gặp nhiều giông tố hay phiền não của Thế Gian để độ đời thì vẫn an nhiên tự tại, Tánh Phật vẫn không bị ô nhiễm:

                   “Minh minh thường tự tại         
                     Diệc niết mục tác quái               
                     Kiến quái bất kiến quái             
  Kỳ quái tất tự hoại”.                
(Rõ ràng thường tự tại.
  Cũng dụi mắt làm quái
  Thấy quái, chẳng thấy quái
  Kỳ quái ắt tự hoại).

Đài số 5 ứng với tần số sóng của Người hay Nghiệp Thức loài Người, màn ảnh truyền hình hiện ra loài Người Ảo và thế giới loài Người Ảo, chỉ là cái Bóng trên màn ảnh, là Mê. Khi Giác Ngộ hay tắt điện hoặc tắt sóng thì Sắc Tướng trên màn ảnh truyền hình hay màn ảnh của Tâm Thức mất trở về Không: “Sắc tức thị Không”. Chính cả cái Tâm Thức này cùng mất trở về Không, kiến Tánh thành Phật.

  Từ cái Quang Minh tịch chiếu, bất giác một niệm Vô Minh nổi lên trùng trùng duyên khởi ra thế giới và chúng sinh trong 6 nẻo luân hồi chìm đắm vào bóng  Mê với thân ảo, thế giới ảo, không có cách nào thoát ra được.  Vì càng Tác, càng động thì niệm niệm lại sinh ra, thế giới Mộng lại càng sinh, chúng sinh trong Mộng lại càng điên đảo. Giống như Mặt Biển càng động là sóng càng nổi lên. Do đó phải buông niệm, vô tác tức trở về “ Vô Niệm”, như “cánh cửa Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng, giống như ngừng tác động thì Mặt Biển từ từ yên lặng trở lại. Lục căn thì điên đảo, vì nó cùng tần số với Nghiệp Thức chúng sanh, Lục căn vừa khởi niệm thì Vô Minh liền tới, hiện ra thế giới Mê:   

“Quang Minh tịch chiếu biến hà sa
  Phàm Thánh hàm linh cộng ngã gia,
  Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện,
  Lục căn tài động bị vân già”.  (Trương Chuyết).
(Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,
Phàm Thánh hàm linh vốn chung nhà.
Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,
Lục căn vừa động bị che lòa).  

Như vậy “ Vô Niệm” thì tất cả trở về nguyên thủy, trở về cái Gốc của Bản Tánh Chân Như, trở về Không, trở về cái “Rỗng Thênh Không Thánh”, tức là ngộ nhập cái: ‘ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Lúc đó thì Thân không, Tâm không, Pháp cũng không: Tâm Pháp đều không, thấy Tánh thành Phật.  
Đạt được TÂM KHÔNG nầy xem như đã TU đến tận Gốc rồi không cần phải TU cái Ngọn. TU mà xem như Không TU. Không TU theo pháp thế gian nhưng lại TU theo Phật CỔ ĐÀM, chư TỔ và Thiền Sư. Không TU theo hình tướng cầu xin cúng lạy Phật tướng bên ngoài dù cho Phật tướng ấy bằng vàng ròng, ngọc thạch, châu báu hay kim cương…Nhưng TU Phật nơi “ TỰ TÂM” vì “TỨC TÂM TỨC PHẬT” và “KHÔNG TÂM là ĐẠO”.  
TU là tự sửa mình của người thế gian; một nghĩa khác: TU là hành trì một Pháp môn nào đó của một Tôn Giáo. Nhưng nếu chỉ hành trì suốt đời một Pháp Môn chết, cứng ngắt và trống rỗng hay chỉ biết cúng lạy một cách mê tín  mù quáng mà gọi là TU thì đây không phải là cách TU của Đức Phật, Tổ và các Thiền Sư. Thời Đức Phật không có hành trì cúng tế lễ bái như các Tôn Giáo . Chữ TU của Đức Phật là ly Pháp Trần đi tìm Chân Lý Giải Thoát bằng cách đi du phương tìm học Đạo Lý và cuối cùng Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Đề suốt 49 ngày để tư duy, quán chiếu, thiền định và tìm ra Chân Lý Giải Thoát bằng Thực Chứng. Khi thành Đạo rồi, Ngài cũng không có lập Tôn Giáo và tự xưng mình là Giáo Chủ, mà chỉ là Ông Thầy chỉ đường (Thiên Nhân Sư), không có dạy cúng bái tế lễ như các Tôn Giáo thời bấy giờ, mà chỉ đi thuyết Pháp độ chúng sinh, cứu chúng sanh ra khỏi đường Mê và giải thoát sinh tử. Các vị Tổ và vô số Thiền Sư ngộ Đạo cũng thế, không có hành trì hay TU ĐẠO. So với các Tôn Giáo thì xem như Đức Phật và Thiền Sư không TU không TÁC. Đạo Lý của Đức Phật chỉ có một vị duy nhất là GIẢI THOÁT, lấy TRÍ TUỆ và TỪ BI làm gốc, không mê tín dị đoan.  

                  “Kiến Đạo phương tu Đạo
   Bất kiến phục hà tu
   Đạo tánh như Hư Không
   Hư không hà sở tu
   Biến quán tu Đạo giả
   Bác hỏa mích phù âu
   Đản khán lộng khối lỗi
   Tuyến đoạn nhất thời hưu”
  (Bài kệ không TU không TÁC của Thiền Sư Bổn Tịnh).
  (Thấy Đạo mới Tu Đạo
  Chẳng thấy lấy gì Tu
  Tánh Đạo như Hư Không
  Hư không Tu chỗ nào
  Khắp nơi người Tu Đạo
  Vạch lửa tìm bọt nổi
  Chỉ xem người gỗ máy
  Đứt dây một lúc dừng). 

Thiền Sư Bổn Tịnh từng chỉ Đạo cho một vị Tăng ở triều đình là Pháp Không về cái ‘‘không Tu, không Tác’’:

‘‘Đạo vốn không Tu ,Đại Đức cưỡng Tu ; Đạo vốn không Tác, Đại Đức cưỡng Tác ; Đạo vốn không Sự,  Đại Đức cưỡng sanh đa Sự ; Đạo vốn không Biết  ở trong ấy cưỡng Biết ,thấy hiểu như thế cùng Đạo trái nhau…, tự Đại Đức không hội, xin suy gẫm lại ’’. 

Thiền Sư Bảo Giám, môn phái Thiền Vô Ngôn Thông đời thứ 9, kế thừa Thiền Sư  Đa Vân. Làm Quan đến chức Cung Hậu Xá Nhân đời Vua Lý Anh Tông. Năm  30 tuổi Sư từ Quan đến Chùa Bảo Phú xuất gia. Sư thường dạy chúng: “Muốn tiến đến Tông Thừa của Phật thì phải siêng năng, nhưng thành Phật Chánh Giác phải nhờ Trí Tuệ. Ví như nhắm bắn cái đích ngoài trăm bước, mũi tên đến được là nhờ sức mạnh, nhưng trúng được đích không phải do sức”. Khi sắp tịch, Sư nói kệ: 

“Đắc thành Chánh Giác hãn bằng Tu,
  Chỉ vị lao lung, Trí Tuệ ưu.
  Nhận đắc Ma Ni huyền diệu lý,
  Chỉ như Thiên Thượng hiển Kim Ô.
  Trí giả du như Nguyệt chiếu Thiên,
  Quang hàm trần sát chiếu vô biên.
  Nhược nhân yếu thức tu phân biệt,
  Lãnh thượng phù sơ tỏa mộ yên.
(Được thành Chánh Giác “ít nhờ Tu”,
  Ấy  chỉ nhọc nhằn, “Trí Tuệ ưu”.
  Nhận được Ma Ni lý huyền diệu,
  Ví thể trên không hiện vầng hồng.
  Trí giả khác nào Trăng rọi Không,
  Chiếu soi khắp cõi sáng không ngần.
  Nếu người cần biết, nên phân biệt,
  Khói mù man mác phủ non chiều). 

Thế gian thường chấp vào Hình Tướng bên ngoài mà cho là Tu, trong Kinh Kim Cang, Phật nói :
“Nhược dĩ  Sắc kiến Ngã         
  Dĩ âm thanh cầu Ngã              
  Thị nhân hành Tà Đạo           
Bất năng kiến Như Lai”.        
                         (Nếu do Sắc thấy Ta
                          Do âm thanh cầu Ta
                          Người ấy hành Đạo Tà
                          Không thể thấy Như Lai).    
                      
Tuy nhiên trong Kinh, Phật có khuyên chúng sinh xây dựng Già Lam, đúc tạc Hình Tượng, đốt Hương, rắc Hoa, chong Đèn sáng mãi…đủ thứ Công Đức mới thành Phật Đạo. Theo Tổ Bồ Đề Đạt Ma: Vì chúng sinh căn cơ cùn lụt nên Phật phương tiện, mượn Pháp Hữu Vi làm thí dụ cho Pháp Vô Vi, nhưng chúng sanh lại “hiểu lầm”, làm trái ý Phật.

- Xây dựng Già Lam : Là lấy Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh địa, xa lìa Tam Độc, tịnh Sáu Căn, Thân Tâm vắng lặng như Hư Không.

- Đúc tạc Hình Tượng : Tức là phỏng theo Chân Dung diệu tướng của Như Lai, không phải đúc vàng, tạc ngọc làm Tượng Phật. Người cầu Đạo phải biết lấy Thân làm Lò Đúc, lấy Pháp làm Lửa, lấy Trí Tuệ làm Tay Thợ Khéo, lấy Ba Giới Tụ Tịnh - Sáu Ba La Mật làm Khuôn Đúc, nấu chảy và rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Thân thành hình tượng của Chân Dung, là Pháp Thân thường trụ vi diệu.

- Việc đốt Hương : Không phải là dùng lửa đốt gỗ trầm hương xông khói mù mịt của Thế Gian, mà là Hương của Pháp Vô Vi (Hương Chánh Pháp) xông lên làm cho Nghiệp dữ Vô Minh tiêu mất. Đó chính là: Hương Giới, Hương Định, Hương Huệ, Hương Giải Thoát và Hương Giải Thoát Tri Kiến. Khi còn tại thế, Phật khuyên các Đệ Tử lấy lửa Trí Tuệ đốt thứ Hương Báu vô giá này để cúng dường Chư Phật mười Phương.

- Việc rắc Hoa : Là hoằng dương Chánh Pháp, rải rắc gieo trồng khắp nơi : “Thí Pháp độ sanh”. Hoa Công Đức này làm lợi ích cho vô số chúng sanh dứt trừ phiền não, phá được Vô Minh đi đến Giải Thoát. Hoa Công Đức mà Phật xưng tán, mùi hương tỏa khắp mười phương không bao giờ héo rụng, rốt ráo thường trụ. Còn việc chặt cây, bẻ nhánh để dâng Hoa cúng Phật của Thế Gian, xúc phạm đến tịnh giới của muôn tượng muôn vật trong Trời Đất, hủy phá tự nhiên, gây hại cho muôn loài để cầu Phước Báu thì không thể nào có mà còn tạo thêm Nghiệp xấu.

- Chong Đèn sáng mãi: Cái Ánh Sáng của viên ngọc Ma Ni hay cái Ánh Rõ Bát Nhã dụ cho ngọn Đèn Tâm, người tìm cầu Đạo Giải Thoát phải lấy Thân làm Đèn, Tâm làm Tim Đèn, Giới Hạnh làm Dầu đốt. Trí Tuệ sáng tỏ như ngọn Đèn Chánh Giác chiếu phá tất cả Bóng Đen của vô minh nghiệp chướng, chuyển Pháp Luân mồi sáng cho nhau, một ngọn Đèn mồi qua trăm ngàn ngọn Đèn, Đèn Đèn vô cùng vô tận, phát lên ánh Bát Nhã Chân Như vi diệu trùm khắp. Phật tên Nhiên Đăng cũng theo nghĩa đốt Đèn nầy. Còn Phật Thích Ca phóng Hào Quang giữa đôi mi chiếu suốt ba ngàn Thế Giới, đó là Ngọn Đèn Trí Tuệ Bát Nhã. Chúng sanh không hiểu lời nói phương tiện của Phật lại bày vẽ theo Hình Tướng đốt lên Đèn dầu, Đèn điện soi vào căn nhà trống nói làm theo lời Phật, mà Trí Tuệ  vẫn mờ tối,Tam Độc vẫn còn nguyên.

Ngoài việc chấp vào Hình Tướng mà cho là Tu, Thế Gian còn chấp cả Kinh Phật và y theo lời Kinh mà không hiểu rõ ý Kinh, cho là Tu theo lời Phật dạy. Phật từng nói : “Đạt Ý quên Lời.” ; hoặc : “Biết Ta mà không hiểu Ta tức là hủy báng Ta.” ; hoặc : “Y Kinh mà hiểu nghĩa thì oan cho ba đời Chư Phật, nhưng sai đi một chữ lại đồng với Ma thuyết.”. Chính Phật cũng nói : “Ta nói các ngươi đừng vội tin, hãy thử lời nói của Ta như thử vàng, đập nó vào đá, phân tích nó, nấu chảy nó, nếu nhận xét thấy nó đúng, hợp lý, có lợi ích thì mới tin”.

Phật dạy : “Ta đã trải qua ba Đại A Tăng Kỳ Kiếp, chịu vô số khổ nhọc mới thành được Phật Đạo”. Thế Gian liền cho rằng chính Phật phải Tu lâu tới ba Đại A Tăng Kỳ vô số kiếp mới Ngộ Đạo thành Phật, chúng ta là phàm phu làm sao chỉ Tu có một kiếp mà thành Đạo được, cho nên cần phải cầu Phật độ về một Cõi nào đó rồi mới Tu tiếp vài A Tăng Kỳ nữa mới Ngộ Đạo như Phật. Điều này trong Phá Tướng Luận Tổ Bồ Đề Đạt Ma giải thích : “Lời Phật nói ra không hề hư dối. A Tăng Kỳ Kiếp tức là Tâm ba độc (Tham, Sân, Si). Từ trong Tâm ba độc ấy, có đủ thứ “niệm ác” nhiều như cát sông Hằng. Ở mỗi một niệm ấy là một kiếp, vậy là có hằng hà số kiếp đếm không xuể, nên nói ba Đại A Tăng Kỳ. Tánh Chân Như bị ba độc che khuất. Nếu chẳng vượt lên Tâm đại hằng hà sa độc ác ấy thì làm sao giải thoát. Nếu nay “chuyển được ba độc Tham Sân Si”  làm “ba món Giải Thoát”, đó gọi là vượt qua ba Đại A Tăng Kỳ Kiếp. Chúng sanh ở thời đại cùng mạt này, căn trí ngu si, cùn lụt, không nhận được ý sâu kín của Như Lai trong câu nói "Ba Đại A Tăng Kỳ", nên nghĩ Như Lai phải qua vô số kiếp như cát bụi mới thành Phật, điều ấy hà chỉ khiến người tu ngờ hão mà lùi bước Bồ Đề sao?”.

  Trong khi đó, Pháp Đốn Ngộ của Thiền Sư chỉ cần một sát na, một cái nháy mắt là đã rũ xong Ba A Tăng Kỳ Kiếp.

                                       “Chứng Thực Tướng , vô nhân pháp,
                                         Sát na diệt khước A Tỳ Nghiệp.
                                         Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
                                         Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp”.
                                                                (Thiền Sư Huyền Giác).
                                          (Chứng Thực Tướng, không nhân pháp,
                                          Sát na rũ sạch A Tỳ Nghiệp.
                                          Bằng đem lời vọng dối chúng sanh,
                                          Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp).

Thời Đức Phật có rất nhiều người Ngộ Đạo. Sau khi chứng Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật đi tìm lại những Vị Thầy và những Hành Giả cũ để giúp đỡ họ. Tuy nhiên những Vị Thầy này đã qua đời. Khi gặp lại năm anh em Kiều Trần Như, chỉ bài Pháp đầu tiên là  Tứ Diệu Đế, cả năm người đều tỉnh thức và Chứng Đạo. Rồi sau này những Vị Đại Đệ Tử  và các Sa Môn đi theo Ngài, rất nhiều người đã Chứng Đạo. Cho đến những người đã bị Ngoại Đạo và xã hội từ chối, bị miệt thị là “tiện dân” như kỹ nữ Liên Hoa Sắc từng ở trong một kỹ viện, Ưu Ba Ly là người chuyên gánh phân …đều Ngộ Đạo. Sau Đức Phật, ở Ấn Độ, trải qua 28 đời các Vị Tổ Sư, ngoài các Vị Tổ có rất nhiều người cũng Chứng Đạo mà không cần phải Tu đến ba Đại A Tăng Kỳ… Ngay thời của Ngài Huyền Giác hay Tổ Huệ Năng, được coi là Mạt Pháp cũng có rất nhiều người Ngộ Đạo trong một kiếp hiện sinh, khi họ gặp được Chánh Pháp và Chân Sư.

* Đức Phật khi Chứng Đạo đã khám phá ra một Chân Lý tuyệt vời : “Tất cả chúng sanh đều có “Phật Tánh” bình đẳng, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Như vậy tất cả chúng sanh đều có sẵn hạt giống Phật nơi Tâm, gieo trồng ắt sẽ gặt quả. Cõi Ta Bà, nơi Đức Phật đã từng gieo hạt và hạt Phật đã nẩy mầm kết trái. Vậy chúng sanh, ngay Cõi Ta Bà, cứ theo con đường của Phật đã đi với Chánh Pháp của Người ắt sẽ gặt quả. Phật dạy chỉ cầu Tâm nơi chính mình, không cần phải nương tựa hoặc cầu xin nơi Thần Linh hay Thượng Đế ở bên ngoài. Thời Đức Phật cách đây hơn 2500 năm, nhiều Pháp Môn hay Tôn Giáo Thần Quyền dựa vào Thần Linh hay Thượng Đế kể cả Tôn Giáo lớn nhất và có trước Phật Giáo như Đạo Bà La Môn...tất cả đều không đạt được mục đích Giải Thoát và thường đi đến chỗ hoang tưởng, mê tín hay cuồng tín. Rất nhiều Tu Sĩ Bà La Môn xin làm Đệ Tử của Ngài, nhiều người đã đạt Đạo. ĐạoPhật là Đạo Vô Thần, khác hẳn với mọi tôn giáo Thần Quyền xưa cũng như ngày nay. Phật bác bỏ mọi quyền năng của Thượng Đế, không tin vào uy lực của Thần Linh, chỉ dựa vào chính mình. Khi chứng Chánh Đẳng Chánh Giác với Phật Nhãn, Đức Phật đã thấy rõ mọi chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng dung thông vô ngại cùng với “Bát Nhã Chân Như” là Một. Bát Nhã là Chơn Nhất là uyên nguyên của vũ trụ và chúng sanh, ngoài ra không có gì khác, tức không có Thượng Đế !

Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác, một Thiền Sư ‘‘Chứng Đạo’’ chỉ rõ : Ngọn Đèn Tâm từ Phật Thích Ca trao cho Tổ Ca Diếp  rồi truyền qua 28 đời ở Tây Trúc, vào Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ, qua sáu đời truyền Y Bát cho tới Lục Tổ Huệ Năng, nếu nghe theo thì người sau sẽ Đắc Đạo nhiều vô số. 
“Lục đại truyền y thiên hạ văn
  Hậu nhân Đắc Đạo hà cùng số” .
(Sáu đời truyền y thiên hạ nghe”.
  Người sau Đắc Đạo nhiều vô số). 
Đạo Phật là Đạo của Trí Tuệ: “Duy Tuệ thị Nghiệp”. Do đó là Phật Con phải dùng Trí Tuệ để quán chiếu sâu sắc mọi sự việc không nên tin bừa bãi vào bất cứ việc gì mà lạc vào mê tín, làm trái ý Phật và vô tình làm cho chúng sanh thụ động đánh mất cái “Phật Tánh” hoặc làm chết đi cái “Phật Tánh” của chúng sanh mà Đức Như Lai đã khám phá ra: vì Mê nên cõng Phật đi lạy Phật, cởi Trâu đi tìm Trâu...và cũng vì Mê nên chỉ biết cầu Thần Linh hay Thượng Đế ở bên ngoài, quên đi Phật Tánh nơi Tự Tâm của chính mình.
Thật ra Đức Phật muốn chúng sanh có sẵn Phật Tánh đều là “Phật Con” chứ không là “Con Phật”, bởi có câu: “Cha làm Thầy, Con đốt Sách”. Vì ỷ lại là “Con Phật” nên bê tha, không chịu học hành rèn luyện Trí Tuệ và Đức Hạnh, ham vui chơi với đời và bạn bè xấu, bị Lục Trần và Ngũ Dục trói buộc , Tánh Phật bị ô nhiễm bởi Vô Minh và Nghiệp Chướng dày đặc che khuất không còn sáng suốt, có chuyện phiền não sợ hãi lại đi cầu Phật. Còn “Phật Con” thì đã là Phật rồi, hạt giống Phật tức “Phật Tánh” đã nẩy “mầm” tuy còn non, nhưng Pháp Trần không thể ô nhiễm, Trí Tuệ vượt khỏi Vô Minh, giống như Sư Tử Con mặc dù Tuổi còn nhỏ, Thân còn non, nhưng tiếng “Hống” lại khỏe mạnh, sắc bén và đầy hùng lực muông thú nghe qua khiếp đảm, rớt hết Tâm Mê. 
“Sư Tử nhi, chúng tùy hậu,
   Tam tuế tiện năng đại hao hống.
   Nhược thị dã can trục Pháp Vương,
   Bách niên yêu quái hư khai khẩu”.
                                   (Thiền Sư Huyền Giác).
(Sư Tử Con chúng theo Mẹ,
Tuổi mới lên ba đà hống khỏe
Chó rừng dầu bén gót Pháp Vương,
Trăm năm yêu quái há mồm suông).  
Nếu tất cả chúng sanh đều là Phật Con hay Sư Tử Con như thế thì mới thật xứng đáng là đã mang dòng máu Phật, tức hạt giống Phật Tánh, và Phật Tánh này ở ngay nơi Tự Tâm tận đầu nguồn, khi đó Tức Tâm Tức Phật. Cho nên không cần phải tìm Phật bên ngoài hay cầu Phật bên ngoài Tâm. “Phật Con” như thế mới là Bản Lĩnh của Phật Tánh, xứng đáng là Con Cháu của Phật, Tổ và Thiền Sư ngoại hạng:
“Ta thà cầu Tâm chẳng cầu Phật
   Rõ ra ba cõi không một vật
   Nếu muốn cầu Phật, thà cầu Tâm
   Chỉ Tâm Tâm, Tâm ấy tức Phật”.(Bồ Đề Đạt Ma). 
Bởi vậy, Kinh Phật phải qua tay Người đã Ngộ Đạo như các Tổ và Thiền Sư thì trở thành “Pháp Bảo” của Phật, nhưng qua tay người chưa Ngộ Đạo, hay lời truyền tụng hoặc truyền thống của Thế Gian thì nên xét lại. Phật Pháp có câu: “Tùng Văn Tư Tu, Nhập Tam-Ma-Địa”. Nghĩa là trước tiên hãy VĂN tức là nghe, đọc, tham cứu, truy cứu, truy tìm… rồi mới TƯ tức là tư duy, suy nghĩ, phân tích, so sánh cho thật kỹ… đạt đến “Chánh Tín” rồi mới TU; nhưng cũng không TU theo Pháp Thế Gian mà theo “Dấu Chân” của Phật Cồ Đàm, các Tổ và Thiền Sư. Như thế mới khỏi lạc vào Mê Tín hay Cuồng Tín, uổng phí cả một đời người hay một đời Tu. Một điều vô cùng lợi ích là đã có Phật, các Tổ và vô số Thiền Sư Ngộ Đạo để lại biết bao nhiêu Tàng Kinh, Luận Thuyết vô giá, chỉ đường rõ ràng. Nếu không may mắn gặp được một Vị Thầy Ngộ Đạo chỉ dẫn hay khai thị thì chia sẻ cùng Thiện Hữu Tri Thức, nhưng phải “ Độc hành độc bộ” như Đức Phật, Chư Tổ và Thiền Sư đã làm.
                 Dù cho gặp thời Mạt Pháp thật sự, Phật pháp bị suy đồi như Ngài Huyền Giác than trách trong thời đại của Ngài:
“Ta ! Mạt Pháp, ác thời thế 
  Chúng sinh phước bạc nan điều chế. 
  Khứ thánh viễn hề, tà kiến thâm
  Ma cường, Pháp nhược đa oán hại”.
(Than ôi! Mạt Pháp, thời thế ác
  Chúng sinh phước mỏng khó điều phục
  Xa cách Hiền Thánh, tà kiến sâu
  Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác tệ). 
Khi đó Pháp Viên Đốn của Như Lai do Đức Phật truyền cho Tổ Ca Diếp đến Tổ Đạt Ma rồi Lục Tổ Huệ Năng…bị thế gian xuyên tạc, thù ghét, thậm chí còn bị hãm hại ( như Tổ Đạt Ma bị thuốc độc tới 6 lần).  
“Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn
  Hận bất diệt trừ như ngõa toái”.
(Nghe nói Như Lai phép đốn tu
  Hận chẳng nghiền tan như ngói bể).  
Cũng khi đó Pháp Đốn Ngộ  “ Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng  bị thế gian xuyên tạc gièm xiểm đến nỗi có người đến rình rập để hạ sát Ngài (Trương Hành Xương  - Chí Triệt) và mấy trăm năm sau, người ta vẫn còn tìm nhục thân của Ngài để xúc phạm. Pháp Đốn Ngộ của Tổ lấy Vô Niệm làm Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm Gốc. Vô Niệm là ngay nơi niệm lìa niệm, nghĩa là đối với cảnh trần, Tâm chẳng nhiễm, trong niệm lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh sanh Tâm. Vô Tướng là đối với tướng mà Tâm lìa tướng, lìa được tướng thì Pháp Thể thanh tịnh, đó là lấy Vô Tướng  làm Thể. Vô Trụ là đối với tất cả pháp niệm niệm chẳng trụ , không bị trói buộc, đó là lấy Vô Trụ làm Gốc. Thật ra người thế gian lấy bụng phàm  mà luận Thánh, không hiểu thấu được hai chữ “ Vô Niệm” của Lục Tổ. Tổ nói: “Vô niệm niệm tức chánh, hữu niệm niệm thành tà”. Vô Niệm hiểu đúng như Tổ nói cũng tức là Chánh Niệm . Đại Thừa Khởi Luận có câu: “Nếu được Vô Niệm gọi là chứng nhập Chân Như”. Kinh Viên Giác cũng có dạy: “Lắng lòng Vô Niệm là tùy thuận Viên Giác Tánh”. Khi thấy rõ Bản Tâm tức là giải thoát, là đạt được Bát Nhã Tam Muội tức Vô Niệm. “ Vô Niệm là thấy tất cả Pháp mà Tâm không nhiễm vương, dính níu” . Do đó, Vô Niệm không phải là dứt bặt hết tư tưởng, không nghĩ ngợi gì hết như một số người lầm tưởng mà Vô Niệm tức là Niệm Chân Như. Tổ nói : “Chân Như Tự Tánh khởi niệm thì 6 căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh. Nên Kinh nói :Phân biệt được các Pháp mà cái Tánh thanh tịnh Niết Bàn chẳng động ”. Tổ nói tiếp : “Vô là không hai tướng, không có cái Tâm trần lao. Niệm là niệm Chân Như Bản Tánh, Chân Như là Thể của niệm, niệm là Dụng của Chân Như. Tự Tánh Chân Như khởi niệm, chứ không phải mắt tai mũi lưỡi khởi niệm được. Chân Như có Tánh, cho nên khởi Niệm….Tự Tánh Chân Như khởi niệm, thì 6 căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm vạn cảnh, Chân Tánh thường tự tại".
Điểm quan trọng là  biết Tâm vốn là vọng là huyễn nên không chấp, chứ không phải chạy theo nó để chống hoặc để diệt. Vì vậy cần hiểu Vô Niệm là đối cảnh mà Tâm không nhiễm, không loạn, chứ không phải là lo diệt bằng cách không khởi suy nghĩ để đạt đến Tâm không- là ngoan không hay vô ký cũng thuộc về Tà niệm, khác với Tâm “Không” là Tâm không nhiễm vạn cảnh khi đối cảnh là Tâm Gốc là Phi Tâm hay Vô Tâm, tức là Tâm mà Phi Tâm hay Tâm mà Vô Tâm : Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm. Ở Pháp hội Linh Sơn, Đức Phật giơ Cành Hoa Sen lên, Tổ Ca Diếp nhận ngay “tức thì” cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen bởi cái Tâm Không, cái Tâm mà Vô Tâm hay cái Tâm Vô Niệm này. Lúc đó Sáu Căn bất động không khởi niệm, nhưng Tánh Chân Như  khởi “ Vô Niệm” niệm ngộ nhập Bát Nhã . Đối với cái nhìn thông thường của phàm phu trên Cành Hoa Sen lúc Đức Phật khai thị là cái “nhìn ra” ngọn Tâm bằng cái thấy của nhãn thức trên cái hình tượng của Hoa Sen rồi khởi niệm phân biệt , phân tích hình dáng màu sắc đẹp xấu qua Sáu Căn để “nhìn ra” Cành Hoa Sen “thông qua cái Kính Nghiệp của Sáu Căn ”. Trong khi đó Tổ Ca Diếp cũng nhìn Cành Hoa Sen, về hình thức thì cũng giống như nhìn ra ngoại cảnh tức nhìn ra ngọn Tâm. Tuy Sáu Căn có thấy nghe hiểu biết, có phân biệt được các Pháp mà không nhiễm vạn cảnh, tức là Tâm không động (Vô Tâm) và Sáu Căn không khởi niệm (Vô Niệm).

Chính khi vừa nhìn thấy Cành Hoa Sen mà Sáu Căn không khởi niệm, cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen thâm nhập tràn vào Sáu Căn đang đồng loạt trống rỗng  giống như nước tự tràn vào chỗ trũng rỗng không. Điều này cũng giống như Tổ Ca Diếp tuy hình thức là nhìn ra Cành Hoa Sen nhưng nội dung hay thực chất thì lại là “nhìn vào” Sáu Căn của Thân Tâm từ cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen, (tức là nhìn về Gốc Tâm chứ không phải nhìn ra ngọn Tâm thông qua cái thấu kính Nghiệp của Sáu Căn khởi động) và tức thì trong cái sát na ấy Ánh Bát Nhã này tràn ngập cả Thân Tâm làm cho Phật Tánh hiện bày. Thân Tâm với Sáu Căn có Phật Tánh tiềm ẩn giống như Chiếc Máy Truyền Hình nhận sóng vô tuyến phát ra từ Đài Phát Sóng. Đài Phát Sóng ở đây là Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen phát ra Tần Số Bát Nhã truyền vào Sáu Căn đang mở  cửa trống rỗng không ngăn ngại, không chận bít vì không khởi niệm. Sáu Căn ở đây nhận sóng Bát Nhã từ Cành Hoa Sen tức là “nhìn vào” Thân Tâm, khác với Sáu Căn khởi niệm tức là “nhìn ra” ngoại trần. Tần Số Bát Nhã tức là Chân Như khởi niệm từ Cành Hoa Sen cùng tần số với Chân Như Phật Tánh của Thân Tâm không bị Sáu Căn ngăn ngại hoặc che mờ nên “bắt được sóng”  với nhau tức là “dung thông” với nhau làm cho Chân Như Phật Tánh khởi niệm phát lộ hòa nhập với Ánh Rõ Bát Nhã đang trùm khắp Hư Không. Cái niệm Chân Như , hay cái “Vô Niệm” niệm khởi trước từ cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen  chiếu vào Sáu Căn của Thân Tâm mà Thân Tâm trong cái sát na này lại là Vô Thân và Vô Tâm tương ưng với cái “Vô Niệm” niệm làm phát lộ Phật Tánh. Trong cái sát na đó nhất niệm Chân Như Phật Tánh duyên khởi hòa nhập với Bầu Trời Rõ MA HA BÁT NHÃ làm MỘT. Chiếc Máy Truyền Hình bắt được sóng Bát Nhã nên hiện ra Tướng Bát Nhã.Thật ra đây không phải là “nhìn vào” Thân Tâm tức là phản quang tự kỷ còn phải tư duy quán chiếu mất nhiều thời gian, còn ở đây cái khai thị vô ngôn đột biến này của Đức Phật chỉ xảy ra trong một sát na và trong cái sát na đó Tổ Ca Diếp đã ngộ nhập Bát Nhã. Ở đây phải là cái “nhìn tắt” cái “nhìn trực tiếp”, cái nhìn  bằng “trí nhãn” không phải bằng ‘‘thức nhãn’’ thông qua con mắt Nghiệp…tức là cái nhìn : ‘‘Trực chỉ Nhân Tâm kiến Tánh thành Phật’’. Bởi vì lúc đó Tâm của Ngài Ca Diếp chính là Cành Hoa Sen, là Một, là bình đẳng ; Thân của Ngài Ca Diếp cũng chính là Cành Hoa Sen, là Một, là Pháp Thân thanh tịnh. Ngài Ca Diếp nhìn Cành Hoa Sen nhận ngay được Tâm mình, nhận ngay được Thân mình và Tâm này là Tâm mà Phi Tâm tức Vô Tâm ; Thân này là Thân mà Phi Thân tức Vô Thân hay Pháp Thân, tức thì thấy Tánh, tức thì ngộ nhập Bát Nhã. Cành Hoa Sen chính là Bát Nhã, Thân Tâm Ngài Ca Diếp lúc đó là Vô Thân, là Vô Tâm, chính là Bát Nhã. Thiền Sư Huệ Hải chỉ rõ : “ Tất cả chỗ mà Vô Tâm, tức là Vô Niệm ”. Thiền Sư Hoàng Bá cũng khai thị : “Cúng dường mười phương Chư Phật không bằng cúng dường một Đạo Nhân Vô Tâm . Tại sao ? Người Vô Tâm là người Vô tất cả Tâm, chẳng phải tuyệt không. Cái bản thể Như Như,  bên trong như gỗ đá chẳng lay chẳng động, bên ngoài như Hư Không, chẳng nghẽn chẳng ngại, không năng sở, không phương sở, không tướng mạo, không được không mất… Dụ  cho Tâm này, tức cái Tâm của Vô Tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh và Chư Phật  chẳng có khác biệt, hễ được Vô Tâm thì đến cứu cánh…Chứng ngộ được Tâm này có nhanh chậm, có kẻ nghe Pháp trong một niệm liền được Vô Tâm, có kẻ đến thập địa mới được Vô Tâm. Lâu hay mau cũng phải đến Vô Tâm mới xong. Lúc ấy mới biết vô tu, vô chứng, thật vô sở đắc…Tâm tự Vô Tâm. Cũng chẳng có kẻ Vô Tâm, nếu đem Tâm làm cho Vô Tâm thì Tâm lại trở thành có ”.

                              “Cư trần lạc Đạo thả tùy duyên
                                Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
                                Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
                                Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiền”.
                                     (Vua Trần Nhân Tông - Tổ Sư Thiền Trúc Lâm - VN).
                               (Ở đời vui Đạo, thả tùy duyên,
                                Ðói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
                               Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
                                Ðối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền!). 

Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng nếu chiết tự ra thì ‘‘Vô’’là không khởi niệm nơi sáu căn, còn ‘‘Niệm’’ là Chân Như Tự Tánh khởi niệm. Cái Vô Niệm này có ý nghĩa thâm áo sâu sắc. Nếu hiểu Vô Niệm của Lục Tổ một cách thật đơn giản mà không làm mất đi cái áo nghĩa thâm huyền  thì có thể xem chữ “Niệm” là một ý niệm, một khái niệm, một tri giác đã có, đang có hay sẽ có khi đã, đang hay sẽ tiếp xúc với trần lao. Những tri giác này thông qua Sáu Căn mới có, do căn và trần chạm nhau mới có, tức là thông qua cái Kính Nghiệp của chúng sanh là Vô Minh, tà kiến, điên đảo, chấp dính, phiến diện, thiếu sót …Vô Niệm là hãy bỏ luôn cái niệm Vô Minh của trần lao này đi, thì mới nhận được cái mới của Minh, của Tự Tánh, của Chân Như Bát Nhã. Thí dụ một ly nước chứa đầy nước suối cũ bị hư thì không thể nào chứa được nước suối mới tinh khiết; do đó phải đổ bỏ hết nước suối cũ đi thì mới nhận được nước suối mới, hoặc là phải có cái ly không, không có chứa một vật gì cả thì có thể chứa được vật khác. Một hòn Bọt phải quên đi cái Ngã của mình là Bọt Nước, không còn cả một niệm dù là vi tế về cái Thân Bọt của trần lao, dính với trần lao, nghĩa là phải mất luôn cả cái Thân Bọt của trần lao, ‘‘ly’’ với cái cảnh của trần lao thì mới trở về với “Nước” được và trở thành Biển Cả “Mất để còn, ly để nhập” là cái quan điểm sơ đẳng để hội Đạo. Nghĩa là phải “mất mình”, mất đi cái Ta, cái Ngã của Ta, do Vô Minh chấp thân chấp tướng  nên thấy Ta là người, Ta là Phật, Ta là phàm, là thánh, là ngạ quỷ súc sanh, là cây cỏ, là sự vật , là đất nước gió lửa…mất rồi thì còn lại khoảng trống tức thì Chân Như Tự Tánh khởi niệm lắp đầy Sáu Căn, tức là  trở về cái Vô Niệm thâm áo của Lục Tổ Huệ Năng, tương đồng với cái Vô Tâm : Tâm của Vô Tâm , Phi Tâm : Tâm của Phi Tâm, trở về với Chân Như Bát Nhã ngộ nhập với cái Không Rỗng Suốt của Tự Tánh, kiến Tánh thành Phật.
Còn chữ  “Niệm” trong Chánh Niệm là cái năng lượng của Tâm thông qua 6 căn : đi đứng nằm ngồi nghe nhìn hoạt động suy nghĩ làm việc … Người học Đạo phải biết nuôi dưỡng cái năng lượng của Chánh Niệm và luôn luôn sống với cái năng lượng nầy khi 6 căn ứng xử với 6 trần giống như vị Tướng giữ thành có 6 cửa :
                            “Học đạo nhu như thủ cấm thành
                              Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh
                              Trung quân chúa tướng năng hành lệnh
                              Bất động can qua trị thái bình”.
                                                                   (Thiền Sư Diệu Phổ).
                            (Học đạo ví như giữ cấm thành
                              Ngày ngừa lục tặc, tối tinh tinh
                              Trong quân chúa tướng hay hành lệnh
                              Chẳng động gươm đao trị thái bình).   

Một vị tướng giỏi lúc nào cũng tỉnh thức sáng suốt (dạ tinh tinh) tức là luôn giữ Chánh Niệm để canh chừng lục tặc (sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp) ở 6 cửa thành tức lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Trong quân vị chủ tướng thi hành lệnh nghiêm ngặt, tức giữ Chánh Niệm triệt để không suy chuyển, nên biết rõ ràng địch( vọng tưởng) đang xuất hiện ở cửa thành nào (tức căn nào : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay là ý…) có bao nhiêu địch quân (tham, sân , si, mạn, nghi, tật, đố…) và đề phòng vững chắc nên địch không dám hoành hành đánh phá, tự động lui quân biến mất mà không cần phải động binh. Như vậy có tỉnh thức sáng suốt, giữ vững Chánh Niệm, biết (Chăn Trâu) thì biết rõ vọng tưởng tự sinh ra rồi tự diệt đi vì chúng là vô thường, giả tạo, không có thật. Do đó không cần phải tác ý, không cần phải hành trì hay chạy theo rượt đuổi để tiêu diệt chúng, mà chỉ cần “tri vọng” tức “biết vọng”  là đủ. Đây là một cách giữ Chánh Niệm trong sự tỉnh thức của Thiền Sư Diệu Phổ dạy cách Chăn Trâu một cách nghiêm túc. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ, cũng dạy Chăn Trâu nhưng nhẹ nhàng hơn : thả lỏng 6 căn, không khởi niệm, không niệm Phật cũng chẳng cầu Thiền, Tâm vọng tự sinh thì tự diệt, miễn là sáu căn không chủ động chạy theo cảnh. Cách Chăn Trâu này dành cho những hành giả đã có Tâm bình an hay đã có kinh nghiệm sâu dầy : vượt hơn Chánh Niệm, không khởi Niệm, hướng về cái Vô Niệm của Tổ Huệ Năng, hay cái Vô Tâm của Thiền Sư Hoàng Bá : 

                                     “Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên,
                                       Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên.
                                       Tự thị quyện thời Tâm tự tức,
                                       Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền”.
                                      (Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên,
                                       Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên.
                                       Lúc mệt mỏi rồi Tâm tự tắt,
                                       Cần chi niệm Phật với cầu Thiền).
                                                                 (Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Giữ Chánh Niệm trong mọi thời, mọi lúc, tức là giữ cho thân tâm an lạc, cũng là biết cách Chăn Trâu giữ cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh, biết cách giữ thành như một vị tướng giỏi giữ 6 căn không dính mắc với 6 trần để đạt tới  bước cao hơn là : Chánh Định hay Vô Niệm , Vô Tâm …. Tuy nhiên cột niệm, buộc niệm chết cứng một chỗ mà không tiêu hóa được niệm thì lại có hại cho thân tâm, vì trong Tâm có Vật có hại cho sự phát triển trí tuệ và sự giải thoát. Trong nhà Thiền gặp lúc cái sát na đột biến dù là Chánh Niệm cũng phải bỏ, tức là phải biết “ Buông Niệm ” để đạt đến Vô Niệm hay Vô Tâm ngộ nhập Chân Như Bát Nhã. Bởi vì dù là Chánh Niệm, nhưng cũng từ 6 căn khởi niệm, mà 6 căn thì điên đảo, còn ở trong Nghiệp Thức. Chánh Niệm cũng là bước thứ 7 trong Bát Chánh Đạo, là đạt tới điểm cao, tuy nhiên vẫn còn ở trong Nghiệp do 6 căn khởi niệm, không phải là Chân Như Tự Tánh khởi niệm nên chưa đạt đến Chân Như. Ở cái sát na đột biến, phải vượt qua khỏi Chánh Niệm tiến tới Vô Niệm mới là tới chỗ rốt ráo. Khi Lục Tổ Huệ Năng khai thị cho Huệ Minh lúc rượt theo Tổ để giành lại y bát. Tổ nói : “Không nghĩ thiện (tức là buông Chánh Niệm), không nghĩ ác (tức bỏ cả Tà Niệm) cái gì là Bản Lai Diện Mục của Thượng Tọa Minh ? ”. Chính nhờ buông cả Chánh Niệm lẫn Tà Niệm, đạt tới Vô Niệm mà Huệ Minh đã Đại Ngộ nơi đây.
Như vậy, Chánh Niệm còn cách Vô Niệm một khoảng cách đột biến, gần thì cũng rất gần nhưng xa thì cũng rất xa, vì một bên là Sáu Căn khởi niệm còn một bên là Chân Như Phật Tánh khởi niệm. Nếu chỉ dừng lại ở Chánh Niệm, tuy Thân Tâm có an lạc, nhưng không thể đạt đến sự Chứng Ngộ tâm linh như Chư Phật và Thiền Sư. Vì thật ra cả ba cái Tâm: Tâm quá khứ, Tâm vị lai và Tâm hiện tại đều không có. Nếu thấy cái Tâm hiện tại còn là Tâm và muốn cho Tâm an lạc hạnh phúc thì đây chỉ là cái Tâm Mê của thế gian và sự hạnh phúc an lạc đó chỉ là tạm thời giống như liều thuốc ngủ hay thuốc an thần của các Nhà Tâm Lý Học, một khi hết thuốc hay Vô Minh và Chướng Nghiệp đến thì Tâm này không còn an lạc nữa! Phật Pháp không phải để chuyên trị cái bệnh “Bất An”  (hay Stress) của Tâm Lý Học thế gian đem lại hạnh phúc cá nhân gia đình và xã hội, điều này đã có các nhà Tâm Lý và các Tôn Giáo làm rồi và đây chỉ là cái “Tiểu An”. Đức Phật từng nói :  “Nước biển có vị mặn, Đạo Ta chỉ có một vị duy nhất là Giải Thoát”. Đây mới là cái Đại An mà Đức Phật trị liệu cho Chúng Sanh thoát khỏi cái Đại Bệnh  “Sinh Tử Luân Hồi” mà người thế gian không làm được. Do đó hành trì Chánh Niệm chưa phải là cái Rốt Ráo để đạt Đạo Giải Thoát mà còn phải vượt xa hơn.
Bài kệ “Thủ Nê Ngưu” của Tuệ Trung Thượng Sĩ : Thầy dạy Đạo của Vua Trần Nhân Tông (Tổ Sư Thiền Trúc Lâm – Việt Nam) chỉ rõ điều này :  

“Một mình giữ một con Trâu Đất
     Xỏ mũi đem về chẳng ngớt chăn
     Đem đến Tào Khê mà thả quách
     Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”. 

Nghĩa là dù giữ Chánh Niệm triệt để, biết cách chăn Con Trâu Đất (tức là Tâm và Thân Tứ Đại), nhưng tốt nhất là đem Con Trâu Đất ấy thả trên đất Tào Khê thì mới an toàn và xong chuyện, không còn phải lo lắng gì nữa, tức là sẽ được cái Đại An của sự Giải Thoát : “Đem đến Tào Khê mà thả quách”. Đất Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ  Năng hành Đạo, và Đạo của Ngài lấy Bảo Đàn Kinh với Pháp Vô Niệm làm căn bản. Chủ ý của Ngài Tuệ Trung là phải vượt khỏi Chánh Niệm để đạt đến cái “Vô Niệm” của Tổ Huệ Năng thì đạt đến cái Rốt Ráo và an nhiên tự tại : “Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”. Do đó nếu chỉ biết hành trì Chánh Niệm và dừng lại nơi đây thì chỉ mới đi có bước đầu, tuy có thể giúp cho người thế gian được an Tâm tạm thời (đạt được cái Tiểu An), nhưng đối với Đạo Giải Thoát thì cần phải tiến xa hơn. Mặc khác, một khi cột niệm nơi Tâm để làm cho Tâm an hay để trừ vọng tưởng phiền não mà cho là thực tập Chánh Niệm thì vô tình “để Sự nơi Tâm để Tâm nơi Sự” là một chướng ngại cho Trí Tuệ và sự Giải Thoát. Do đó dù là Chánh Niệm cũng phải biết Buông Niệm hay tiêu hóa Niệm: ngay nơi Niệm mà lìa Niệm, không phải Sáu Căn khởi niệm và rồi cột Niệm nơi Sáu Căn, mà phải “vô” Niệm nơi Sáu Căn và “hữu” Niệm nơi Chân Như Phật Tánh (tức Chân Như Phật Tánh khởi Niệm) chính là VÔ NIỆM đồng nhất với VÔ TÂM, tức là cái TÂM mà PHI TÂM. Đây là cái Rốt Ráo vượt khỏi Chánh Niệm đạt tới cái Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng.
Pháp Vô Niệm của Tổ Huệ Năng tuy bị thế gian bài xích xưa nay, nhưng thực tế đem lại lợi ích cho vô số người ngộ Đạo, làm cho Thiền  Tông Trung Hoa lần đầu tiên rẽ hướng đi khác với Thiền Tông Ấn Độ( tùy duyên bất biến) và rực sáng trên bầu trời Trung Hoa từ Hoa Nam rồi lan nhanh ra Hoa Bắc( làm cho pháp Tiệm Ngộ của Ngài Thần Tú bị lu mờ ). Chính Đại sư Thần Tú tự than và khuyên đệ tử :
- Ngài Huệ Năng được Vô sư Trí, thâm nhập Tối thượng thừa, ta thật không sánh bằng. Huống chi Thầy ta là Ngũ Tổ đã đích thân truyền y pháp cho Ngài, đâu phải vô cớ mà truyền. Ta bận không thể đi xa thân cận Ngài, ngồi đây mà luống thọ ân vua (Võ Tắc Thiên).  Các ngươi đừng nên lưu luyến ở đây, hãy đến Tào Khê tham bái mà giải quyết (những nghi ngờ về Phật pháp).
Một ngày kia, Đại sư Thần Tú gọi môn đệ là Chí Thành, bảo:
- Ông thông minh nhiều trí, hãy vì tôi đến Tào Khê nghe pháp, nghe
điều gì thì nhớ kỹ về thuật lại cho tôi.
Sau này, Thần Hội đệ tử xuất sắc của Tổ Huệ Năng ra Hoa Bắc giáo hoá pháp Đốn Ngộ Vô Niệm của Lục Tổ, bị nhiều người gièm xiểm, hãm hại, tố cáo với nhà Vua là âm mưu làm loạn chống phá triều đình. Nhưng pháp Tiệm Ngộ của Đại Sư Thần Tú vẫn bị lu mờ ở Hoa Bắc nhường chỗ cho pháp Đốn Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng. Sau Tổ Huệ Năng có biết bao nhiêu Thiền Sư ngoại hạng ra đời thay thế Phật độ sinh.
Dù cho chúng sanh lăng xăng chạy theo Pháp trần, thích hình tượng bên ngoài, thích Chùa to, Phật lớn, Phật vàng, Phật ngọc….mà quên đi việc rèn Tâm luyện Trí như Thiền Sư Lạc Phố đã cảnh giác: 

“Nhất phiến bạch vân hoành cốt khẩu ,
  Kỷ đa qui điểu tận mây sào”.
(Một áng mây trắng che cửa hang
  Bầy chim bay về  đều quên tổ).  

Hình tượng cái chùa to tráng lệ và Ông Phật to bằng vàng, bằng ngọc ở trong chùa sẽ là áng mây trắng che mất cửa hang….( tức là hang Tâm của chính mình) nên bầy chim bay về đều quên tổ ( tức là quên đi tức Tâm mình là Phật) mà chỉ thấy cái tượng chùa to và cái tượng Ông Phật to bằng vàng, bằng ngọc ở trong chùa rồi cầu xin lạy lục Ông Phật trong chùa đó cho mình được nhiều phước và được về Tây Phương Cực Lạc. Khi đó Ngài Huyền Giác nói: 
“Cầu Phật thi công tảo vãn thành”
(Ra công cầu Phật mấy thuở thành?). 
Dù cho thế thời điên đảo, chúng sanh mê muội, Phật Pháp suy đồi, chùa chiền biến chất như trong thời đại Ngài Huyền Giác nhưng nếu giữ được “ Ngọn Đèn Tâm” mà Đức Phật đã trao truyền trực tiếp cho Tổ Ca Diếp đầu tiên, qua 28 đời ở Tây Thiên cho đến Tổ Bồ Đề Mạt Đa rồi vào Trung Quốc với 6 đời truyền y bát cho tới Lục Tổ Huệ Năng được thiên hạ nghe theo thì người sau vẫn đắc Đạo nhiều vô số:  
“Lục đại truyền y thiên hạ văn,
   Hậu nhân đắc đạo hà cùng số”.(ThS. Huyền Giác).
Rất may, ngọn đèn Tâm đó vẫn còn cháy sáng, Chư Tổ và Thiền Sư vẫn giữ nó trong tấm bản đồ “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” để chúng sanh tự mồi lửa Tâm mình với Tâm Phật hòa làm một sáng lên trí Bát Nhã và ngộ nhập Bát Nhã. Tấm bản đồ này cũng là Bài Kinh Vô Tự Vô Ngôn vô cùng vi diệu và nhiệm mầu là nguyên cả Bầu Trời Rõ Chân Không vô tận cũng là Ánh Bát Nhã tràn ngập Đạo Lý. Các Ngài với lòng từ bi vô hạn còn chỉ rõ cả cửa vào. Đức Phật thì chỉ cánh cửa RÕ: “ Niêm Hoa Vi Tiếu”; Tổ Long Thọ chỉ 3 cửa: “ Vô, Vô Tướng, Vô Tác”; Bồ Đề Đạt Ma chỉ tới 6 cửa: “Thiếu Thất Lục Môn”; Lục Tổ Huệ Năng chỉ cái “Cửa Vô Niệm”, Thiền Sư Sư Bị thì chỉ  “Cánh cửa Ca Diếp”; Triệu Châu lại chỉ cửa “Không”. Huệ Khai thì chỉ cánh cửa  “Vô”; Huyền Giác lại chỉ cửa “Vô Vi”….Dù bao nhiêu cửa cũng chỉ là Một Cửa, tất cả cửa đều không khác, qua được một cửa là đã vào “Căn Nhà Xưa”: Căn nhà: “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
*Cái căn nhà : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” bất khả tư nghì, vi diệu và rốt ráo này, Tổ và Thiền Sư thường khai thị ngắn gọn chỉ trong một chữ “NHƯ”, “VÔ” hay là “KHÔNG”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, một câu ngắn gọn: “Sắc tức thị Không” nói lên cái áo nghĩa thâm sâu, siêu huyền cực lý và cũng là cái Chân Lý Vũ Trụ tuyệt vời. Thật vậy chỉ một câu: “Sắc tức thị Không” của Đức Phật, người nào đã am hiểu rõ ràng tận gốc tận cùng, tuy nhiên đây chỉ là đạt trên Lý, Sự thì vẫn còn ngăn ngại, có thể đặt làm “công án” Thiền, quán chiếu cái KHÔNG cho đến lúc bất chợt ngộ nhập vào KHÔNG, hoặc nhìn vào Hư Không với cái ‘‘cánh cửa Rõ Vô Vi’’ và có cái ‘‘Tâm tương ưng’’ thuần đức thì “có thể” đạt Đạo vô sanh, an trú nơi cái Không hay Niết Bàn thường lạc ngã tịnh. Nghĩ đến điều này, quả thực Đức Phật phải có cái Trí Tuệ siêu việt (Trí Bát Nhã) và lòng từ bi vô hạn, muốn độ hết thảy chúng sanh thoát khỏi luân hồi , nên đã trao Tấm Bản Đồ Bát Nhã vi diệu này, chỉ rõ ràng, tuy về hình thức thì thấy dường như Đức Phật giấu giếm nhiều “Mật nghĩa u thâm”, nhưng đối với những ai chịu khó tư duy quán chiếu thật sâu sắc thì sẽ thấy rõ và thấu hiểu được cái Lý Như Như hay cái Lý Sắc Không vi diệu của vũ trụ. Như đã luận giải ở phần trên, nhờ những phát minh Khoa Học đã chứng minh nhiều lời nói của Đức Phật là chính xác, chẳng hạn như: trong ly nước có vi trùng, vật chất không có tự tánh mà là do duyên hợp… Còn nhiều điều bí mật như cái Lý: “Sắc Không” mà Khoa Học ngày nay chưa giải lý nổi. Thật ra vì các nhà Khoa Học cứ nghiên cứu cái Bóng Trăng cho nên không bao giờ nhìn thấy được Mặt Trăng thật hay Chân Lý. Bởi vì các Nhà Khoa Học chỉ nghiên cứu trên cái Tướng của Sự Vật mà không nghiên cứu trên cái Vô Tướng hay cái Vô Vi mà Thiền Sư Huyền Giác đã khai thị :
“Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo nhân”
Đối với vũ trụ, các Nhà Bác Học Không Gian đã khám phá ra nguyên thủy của vũ trụ là một Dị Điểm Big Bang (singular point) vô cùng nhỏ với đường kính D = 10-33 centimet , nổ ra cách đây 15 tỷ năm ở thời điểm Planck (T = 10-43 giây), và họ cho đây là cái tột cùng nguồn gốc vũ trụ! Nói theo Phật Pháp thì đây là chỉ mới khám phá ra cái Dụng và còn ở trên Sự Tướng, tức là chỉ quan sát trên cái Bóng Trăng mà chưa nhận ra cái phần Thể, tức là cái Vô Tướng trên Sự Vật hay là Mặt Trăng thật. Nói theo Thiền Sư Cảnh Sầm thì chưa nhảy qua khỏi “đầu sào trăm trượng” mà cũng chưa đi hết “trăm trượng đầu sào”. Còn nói theo Ngài Huyền Giác là chưa đạt tới cái “Vô Vi” mà cũng chưa đến được “cửa Vô Vi” cho nên chưa thấy được Chân Lý tối thượng. Phải đi hết “trăm trượng đầu sào” và phải huốt khỏi “đầu sào trăm trượng”, huốt khỏi sự vật, ở đây là phải huốt khỏi cái máy động, cái hình tướng, cái sự vật của Dị Điểm Big Bang, tức là cái “Tuyệt Cùng” ngay trên Dị Điểm Big Bang: là cái “cửa Vô Vi”, “đột phá” ngay “cửa Vô Vi” để nhập vào “Vô Vi”, chính là cái “Không”, cái Hư Không - Rỗng Rang - Emptiness ở thời điểm T0 = 0 giây. Cái “Không” này là nguồn gốc, là Mẹ Đẻ ra vũ trụ với hàng trăm tỷ Thiên Hà: “Không tức thị Sắc”. Cái “Không” này cũng gọi là Tánh hay Bát Nhã, còn cái Dị Điểm Big Bang là một điểm của Tâm hay một niệm Vô Minh ảo hóa duyên khởi trùng trùng sinh ra vũ trụ!

Còn đối với vật chất, sơn hà, đại địa trong vũ trụ, nếu chia chẻ phân tích vật chất này để xem cái “Cốt Tủy” bên trong, cái Tướng Thật hay cái Tự Tánh của nó là gì? Nếu chia cắt như vậy cho đến cái cực nhỏ thì ta được một Phân Tử vật chất (molecule). Rồi bên trong Phân Tử tiếp tục chia chẻ phân tích thì thấy Phân Tử gồm nhiều nguyên tử (atoms) kết hợp lại. Thí dụ như Phân Tử Đường saccharic (sugar) với công thức hóa học là C12H22O11 gồm 12 nguyên tử Carbon (C) kết hợp với 22 nguyên tử Hydrogen (H) và 11 nguyên tử Oxygen (O). Tiếp tục chia chẻ phân tích bên trong mỗi nguyên tử thì thấy hàng trăm hạt vi tế bên trong nhân nguyên tử như protons, neutrons, neutrinos…và các hạt electrons quay chung quanh nhân. Tiếp tục chia chẻ phân tích bên trong những hạt này thì thấy các hạt quarks, thí dụ một hạt electron gồm 3 hạt quarks (2downs+1up) kết hợp lại. Cuối cùng  phân tích bên trong mỗi hạt quark thì thấy  sóng gamma  (γ) photon vi tế năng lượng cao. Sóng gamma photon là năng lượng, là đầu mối tạo ra vật chất có khối lượng với công thức biến đổi năng lượng thành khối lượng tạo ra vật chất của Nhà Bác Học Einstein là : E = MC2, trong đó E (energy) là năng lượng, M (mass) là khối lượng vật chất và C (velocity) là vận tốc sóng - hạt photon ánh sáng. Sóng gamma photon này ở thể “Động” thì là năng lượng và có cái Tướng “Sóng”, nhưng lúc nghỉ hay ở trạng thái “Tĩnh” thì khối lượng nghỉ là M = 0 và khi đó năng lượng nghỉ cũng mất : E0 = 0.
                                          E0 = MC2 = (0)(300.000)2 = 0.
Như vậy ở trạng thái “Động” thì là Sóng có năng lượng và năng lượng này biến thành khối lượng vật chất tức là Sắc; ở trạng thái “Tĩnh” thì cái Tướng “Sóng” mất, khối lượng và năng lượng cũng mất, tức là cái SẮC mất và trở về KHÔNG. Như vậy Vật Chất chỉ “hiện hữu” khi ở trạng thái “Động”, còn ở trạng thái “Tĩnh” thì  “biến mất” nhập vào Không. Do đó Vật Chất “không có thật” và cũng không có Tự Tánh, tức là Tánh Không. Vật chất chỉ là ảo hóa hay là cái Bóng của cái KHÔNG : giống như Biển động thì Nước nổi lên thành Sóng; Biển yên lặng thì Sóng mất trở thành Nước. Rốt ráo lại giống như Biển Nước, khi ở trạng thái Động (TÁC) do Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động, thì từ cái KHÔNG với cái năng lượng “Động” hiện ra cái Tướng Sóng vi tế, rồi năng lượng Sóng này chuyển thành vật chất có khối lượng, là cái SẮC. Khi ở trạng thái “Tĩnh” (VÔ TÁC) thì Sóng vi tế mất thì vật chất mất, vật chất là SẮC, tức là SẮC trở về KHÔNG: “Sắc tức thị Không”. Sóng này tùy duyên mà biến hoá ra vô số thể trạng khác nhau tùy theo biên độ (amplitude), độ dài sóng (wave-length) tần số (frequency), chu kỳ (period), hằng số pha ( phase constant)…là cái Diệu Hữu. Thí dụ một phương trình Sóng thật đơn giản:  y = ymsin(ωt+ф). (ym= biên độ, ω (omega) = tần số, t = thời gian, ф (phi) = pha sóng) có dạng Sóng hình Sin và chu kỳ Sóng là T=2π/ω. Mỗi chu kỳ T là một niệm; có vô lượng hình tướng Sóng, truyền đi với vô lượng chu kỳ hay là vô lượng niệm mà tạo tác ra cái Sắc. Ngoài việc chuyển từ năng lượng thành khối lượng vật chất, Sóng còn có thể hiện ra những tướng khác như : âm thanh, màu sắc, hình ảnh, động năng, cơ năng, nhiệt năng, hóa năng, điện năng, quang năng, nguyên tử năng…cho tới cái thấy nghe hiểu biết…cả đến cái Thân Tâm Người và Thân Tâm Vũ Trụ ! Cái tướng Sóng sau một chu kỳ T hay một niệm, là một “Vi Sóng” tương ưng với một “Vi Sắc”. Niệm niệm trùng trùng duyên khởi với vô lượng “Vi Sóng” tương ưng với vô lượng “Vi Sắc”,  sinh ra Càn Khôn Vũ Trụ và sum la vạn tượng đầy ắp trong Hư Không. Tận đầu nguồn Sóng là Phi Sóng, là cái cửa Vô Vi, tương ưng với tận đầu nguồn Sắc là Phi Sắc cũng tương ưng với tận đầu nguồn Tâm là Phi Tâm. Vì Sóng là cái Tướng vi tế của Tâm… là một. Sóng nổi lên là Tâm động, Sóng mất là Tâm tĩnh lặng bắt đầu chiếu soi là chiếc Gương Tâm, giống như Sóng mất trở về Nước và Mặt Nước lặng yên như Gương bắt đầu chiếu soi. Ba ngàn thế giới hiện Bóng trong chiếc Gương này. Như vậy Càn Khôn Vũ Trụ chỉ là cái Bóng của chiếc Gương Tâm và Gương Tâm là Ánh Rõ hay Ánh Sáng của Tánh, của Bát Nhã hay Viên Ngọc Ma Ni. Rốt ráo, Tâm động nổi Sóng thành Sắc với ba ngàn thế giới, Tâm tĩnh Sóng mất, Sắc trở về Không…Đối với người ngộ đạo với cái Tâm Vô, đạt đến Vô Vi, thấy Sắc tức Không, đâu đâu cũng là Bát Nhã, Niết Bàn hay Pháp Thân thanh tịnh bình đẳng hòa chung với Hoa Tạng Pháp Giới làm một…
Nói cho cùng thì Vật Chất từ hạt Nguyên Tử cho đến Vũ Trụ bao la đều do Tâm làm ra và Tâm là một nhà ảo thuật đại tài hiển ra cái Sắc, biến hóa một cách vi diệu (Diệu Hữu) từ Gốc Tâm cho đến Ngọn Tâm đủ thứ hình thù, màu sắc, âm thanh, sơn hà, đại địa, cây cỏ và muôn loài chúng sanh…cho nên Kinh nói: “nhất thiết duy Tâm tạo”. Tâm cũng là Sắc là cái Dụng của Tánh, của Bát Nhã hay cái KHÔNG. Nhưng tột cùng thì Tâm và Sắc cũng chẳng có, chỉ là cái Bóng của Tánh hay của cái KHÔNG. Người thế gian không ngờ rằng cái Sắc tức Vật Chất: từ hạt Nguyên Tử cho tới Vũ Trụ “không thật có” mà chỉ là cái “Bóng” của cái KHÔNG hay Bát Nhã! Và khi Khoa Học phân tích nghiên cứu đến cái tận cùng nguồn gốc sinh ra Vũ Trụ là cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ ở thời điểm Planck T = 10-43 giây; nhưng ở thời điểm T= 0 giây là giao điểm giữa cái Dị Điểm Big Bang và cái KHÔNG, vừa huốt cái Sắc, cái năng lượng, cái máy động, chính là cái ‘‘cửa Vô Vi’’, ngay đó liền đụng tới cái KHÔNG là Bản Thể của cái SẮC, là cái Rốt Ráo mà Khoa Học lại bỏ qua! Khoa Học cũng nghiên cứu phân tích trên cái SẮC tức Vật Chất thì thấy cái tận cùng của Vật Chất là Sóng vi tế ở trạng thái “Động”, nhưng ở trạng thái “Tĩnh” thì Sóng mất, năng lượng hay khối lượng cũng mất (M=E=0), vừa huốt cái Tướng Sóng vi tế, cái năng lượng, khối lượng, vừa huốt cái “máy động” (Tác) của Sóng là trạng thái “Tĩnh”, tức là cái “cửa Vô Vi”, thì cũng đụng tới cái KHÔNG và chính cái KHÔNG này là Bản Thể hiển ra cái SẮC hay Vật Chất, tức là cái Dụng nhưng Khoa Học cũng lại bỏ qua, chỉ chấp Dụng mà bỏ Thể, chấp cái Bóng Trăng mà bỏ qua Mặt Trăng thật! Nếu Khoa Học phân tích hình tướng Sự Vật từ nguyên tử vật chất cho tới nguồn gốc vũ trụ tới tận đầu nguồn, không  dừng lại ở trạng thái “Động” của Sóng vật chất vi tế mà tiến tới trạng thái “Tĩnh”, không dừng lại ở thời điểm Planck T = 10-43 giây mà tiến tới thời điểm T=0 giây thì sẽ đụng tới cái KHÔNG : Cái KHÔNG này vừa giải thích rằng Vật Chất và Vũ Trụ “không thật có”, vừa giải thích Vật Chất và Vũ Trụ từ cái KHÔNG mà ra và cái KHÔNG này không phải là không ngơ hay “ngoan không” vô tích sự mà là cái KHÔNG vi diệu là Chân Lý tột cùng!
Khoa Học dùng thí nghiệm nhưng chưa đi huốt con đường Tâm hay Sắc cho nên chưa thấy được cái tột cùng của Chân Lý. Trong khi Chư Phật, Tổ và Thiền Sư “nhảy qua khỏi đầu sào trăm trượng” hay đạt tới “cái cửa Vô Vi” và ngay đó nhảy thẳng vào Tánh là cái KHÔNG rốt ráo nên đạt tới Chân Lý tuyệt đối. Chẳng hạn như cái thấy của Tổ Long Thọ: “Thành Niết Bàn có ba cửa: Vô, Vô Tướng, Vô Tác” là cái thấy tận cùng của Chân Lý. Bởi vì cái KHÔNG rốt ráo, tức là Bát Nhã, Chân Như, Thật Tướng hay Niết Bàn thì không có một vật (VÔ), không có hình tướng Sắc hay là Tâm (Vô Tướng) và trong sáng thường chiếu thường soi tĩnh tịch lẳng lặng và bất động như Gương (Vô Tác). Khoa Học nhảy không qua cái cửa này, còn thiếu một bước là “đầu sào trăm trượng” và cái “cửa Vô Vi” của Thiền Sư. Khoa Học biết được cái nguồn gốc Vũ Trụ là một Dị Điểm Big Bang (tức là một điểm của Tâm và Sắc) ở thời điểm Planck, nhảy qua khỏi cái thời điểm này tức là T=0 giây cho đến T = -1 giây thì đã lọt vào cái  KHÔNG hay cái “thành Niết Bàn” (Vô, Vô Tướng, Vô Tác) của Tổ Long Thọ. Khoa Học cũng đã phân tích thấy được cái căn bản tột cùng của Vật Chất là Sóng vi tế năng lượng cao ở trạng thái “Động”, còn ở trạng thái “Tĩnh” thì Sóng mất và khối lượng vật chất cũng mất: M=0. Khoa Học cũng không nhảy qua khỏi cái Cửa này vì còn chấp cái “Tướng Sóng” và cái “Tướng Động” của Sóng Vật Chất. Nếu thêm một bước nữa là đã tới cái cửa Vô Vi tức là chỗ không còn “máy động” (trạng thái Tĩnh) không còn hình tướng (không còn cái Tướng Sóng) thì tìm thấy cái căn nguyên rốt ráo của Vật Chất chính là cái KHÔNG trở về ba cái cửa Vô, Vô Tướng, Vô Tác của Tổ Long Thọ.

Chư Phật, Tổ và Thiền Sư  nhìn Sự Vật bằng Tâm với ngũ nhãn, còn Người Thế Gian thì nhìn bằng Lục Căn qua cái “Thấu Kính Nghiệp”, bị “khúc xạ” theo Nghiệp Tướng, bị dao động và điên đảo…. Tâm này là Tâm “không” bất động như Mặt Nước lặng yên, như chiếc Gương trong không có ngấn bụi soi sáng cả ba ngàn thế giới. Đó là cái Tâm “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng, cái Tâm “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác, cái Tâm “Vô Tâm” của Thiền Sư Hoàng Bá, cái Tâm “Vô” của Thiền Sư Đức Sơn, hay cái Tâm “Vô, Vô Tướng,Vô Tác” của Tổ Long Thọ…
“ Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện,
    Lục căn tài động bị vân già”.  (Trương Chuyết)
   (Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,
    Lục căn vừa động bị che lòa). 
Cái “Bí Quyết” ở đây là “Tĩnh”, tức “không Động”, không khởi niệm thì Chân Lý hay Sự Thật hiển bày đạt tới cái KHÔNG : “Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện”. Niệm ở đây là sáu căn khởi niệm. Một niệm của sáu căn vừa khởi lên, hay vừa “Động” thì Vô Minh hay Nghiệp Lực liền đến che mờ cái Chân Như Tự Tánh : “Lục căn tài động bị vân già”. Vật Chất cũng vậy, khi Sóng Vật Chất khởi lên một niệm, tức là một chu kỳ T thì liền ngay đó có cái Tướng Sóng sinh ra SẮC tạo ra cái Tướng của Thế Gian “Mê”. Do đó, “Tĩnh” thì trở về cái Tự Nhiên, cái Như Nhiên, cái Như Như, hay cái Như (Pháp nhĩ như thị) và rốt ráo là cái KHÔNG trùm khắp và bình đẳng. Một điều lạ là tuy Tĩnh lặng, không động, vô niệm, vô trụ, vô Tâm…nhưng vô niệm nơi sáu căn mà Chân Như Tự Tánh khởi niệm Bát Nhã lộ toàn thân, vô Tâm mà Đại Tâm Đại Ứng trùm Pháp Giới, vô trụ mà “Ưng vô sở trụ như sanh Kỳ Tâm”!... Còn “Động” thì cái Như Như ấy bị Vô Minh, Nghiệp Lực hay cái “Tướng Động” che mờ sinh ra cái Bóng Sắc Trần với cái Tướng phân biệt của Sắc mà sinh ra Ngã Chấp có Năng Chấp Sở Chấp, điên đảo trong cái Mê, mất đi cái Tính Chơn Nhất của Đại Đạo.
Cũng như một Hòn Bọt “tự mất mình”, không còn chấp cái “Ngã Bọt” mà trở về với Nước (Vô), không còn cái “Tướng Bọt” mà hòa chung với Biển Cả bao la (Vô Tướng), không còn cái “Tướng Động” lắc lư điên đảo mà trở về với Biển Nước lặng yên như Gương (Vô Tác), soi thấu suốt Bầu Trời trong vô tận. Mặt Nước nếu “Động” nổi lên ngàn Sóng, thì không thể soi thấu Bầu Trời trong. Tâm “Động” cũng vậy, Sóng Vô Minh hay Sóng Nghiệp nổi lên sắc tướng Thế Gian mê. Tâm “Tĩnh” đạt đến Tâm không : “Vô, Vô Tướng, Vô Tác” thì Thế Gian mê tan hoại, Bát Nhã Niết Bàn lộ nguyên hình.
Bên ngoài thấy Sắc chạy theo Sắc là “Động”, bên trong “Vô Niệm” thấy được Tự Tánh là “Tĩnh”. Chỉ cần thấy được Tự Tánh là xong hết mọi việc, thấy được Tự Tánh là có đủ Tam Thân, Tứ Trí, hoàn tất tám cửa giải thoát, sáu cửa lục thông, là “thân chứng” những diệu dụng của Tâm như Thiền Sư Huyền Giác chỉ rõ:

“Tam thân, tứ trí thể trung viên
  Bát giải, lục thông Tâm địa ấn”.
  (Ba thân bốn trí thể tròn nguyên
  Tám giải, sáu thông Tâm ấn hiệp).

Rốt ráo của Thanh Tịnh là “Tĩnh” tức Bồ Đề, Tổ Đạt Ma nói:

“Thanh tịnh tự phân ly
  Tứ Trí ba vô tận
  Bát Thức hữu thần uy
  Tâm đăng minh Pháp Giới
  Tức thử thị Bồ Đề”.
  (Thanh tịnh tự phân ly
  Bốn Trí cuồn cuộn sóng
  Tám Thức lộ thần uy
  Đèn Tâm soi Pháp Giới
  Đó tức là Bồ Đề).

Nói về Tam Thân Tứ Trí  một khi “chứng” được Tự Tánh, Lục Tổ Huệ  Năng  giải thích :

“Tự Tánh cụ tam thân
  Phát minh thành tứ trí
  Bất ly kiến văn duyên
  Siêu nhiên đăng Phật địa
  Ngô kim vị nhữ thuyết
  Đế tín vĩnh vô mê
  Mạc học trì cầu giả
  Chung nhật thuyết Bồ Đề”.

Nghĩa là Tự Tánh có đầy đủ Ba Thân: Thanh tịnh Pháp Thân là Tự Tánh thanh tịnh của mình dung thông và trùm khắp tất cả Tánh. Viên mãn Báo Thân là Trí  Tuệ bất sanh bất diệt của mình. Thiên bá ức Hóa Thân là tất cả những hạnh lành của mình.

Từ Ba Thân phát minh thành Tứ Trí:
1-Thành Sở Tác Trí (tức Ngũ Thức: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân chuyển thành Trí).
2- Diệu Quán Sát Trí (tức là thức thứ sáu: Ý Thức chuyển thành Trí).
3-Bình Đẳng Tánh Trí (tức là thức thứ bảy: Mạt Na Thức chuyển thành Trí).
4-Đại Viên Cảnh Trí (tức là thức thứ tám: A-Lại-Da Thức chuyển thành Trí).

Tất cả chẳng lìa duyên thấy nghe, siêu nhiên bước lên quả Vị Phật. Lục Tổ vì chúng sanh mà nói, và điều này là niềm tin chắc chắn “Đế Tín” không mê lầm; không nên tìm cầu bên ngoài, trọn ngày nói Bồ Đề mà không hiểu Bồ Đề là gì?! Như vậy từ Tự Tánh mới có được Ba Thân và từ Ba Thân mới có được Tứ Trí. Nếu lìa Ba Thân mà nói Tứ Trí thì Trí này không có Thân, thì Trí là vô Trí. Tổ nói kệ:

“Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh
  Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh
  Diệu quán sát trí kiến phi công
  Thành sở tác trí đồng viên cảnh
  Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển
  Đãn dụng danh ngôn vô Thật Tánh
  Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình
  Phồn hưng, vĩnh xử Na-già định”.

Nghĩa là Đại Viên Cảnh Trí là Tánh thanh tịnh của nhân giả. Bình Đẳng Tánh Trí là Tâm không bệnh tức là không duyên theo Sắc Trần. Diệu Quán Sát Trí là làm tất cả mà như không có làm, tức là không chấp công chấp ngã hay có năng có sở. Thành Sở Tác Trí thì đồng với Đại Viên Cảnh Trí. Ngũ thức và thức thứ tám; thức thứ sáu và thức thứ bảy là trên quả và nhân chuyển: tức là thức thứ sáu, thức thứ bảy là nhân, còn ngũ thức và thức thứ tám là quả (lục thất nhân trung chuyển; ngũ bát quả thượng viên). Những thức này chỉ dụng danh ngôn mà không có Thật Tánh. Nếu ngay trên chỗ chuyển mà không dấy niệm (vô niệm) tức là sáu căn không Động mà Tĩnh, không có lưu tình, thì ngay nơi chỗ phồn hưng (ồn náo) mà vẫn ở trong đại định Na-già. Điều này Tổ thứ 22 Ma-Noa-La (Manorhita) Thiền Tông có nói:


“Tâm tùy vạn cảnh chuyển
  Chuyển xứ thật năng u
  Tùy lưu nhận đắc Tánh
  Vô hỷ diệc vô ưu”.
  (Tâm theo muôn cảnh chuyển
  Chỗ chuyển thật kín sâu
  Tùy dòng nhận được Tánh
  Không mừng cũng không lo). 
Chuyển Tám Thức thành Trí này, chỗ Bí Quyết là “Tĩnh”, nghĩa là không khởi niệm tức vô niệm, không lưu tình: “Vô hỷ diệc vô ưu” Cái Bí Quyết thứ hai là chỉ cần chuyển cái “Nhân” là thức thứ sáu (Ý Thức) và thức thứ bảy (Mạt Na Thức) thì được cái “Quả” tự nhiên chuyển theo là Ngũ Thức (nhãn, nhỉ ,tỷ, thiệt, thân) và thức thứ tám (A-Lại-Da Thức). Trong Duy Thức Luận có nói rõ công dụng của mỗi thức trong Bát Thức như sau :

“Bát cá đệ huynh nhất cá si
   Độc hữu nhất cá tối lưu ly
   Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
   Nhất cá gia trung tác chủ y”.

Nghĩa là trong tám anh em “Bát Thức” có một đứa “ngu si” nhất đó là anh thứ bảy (Mạt Na Thức) bởi vì chấp Ngã; anh thứ sáu (Ý Thức) thì khôn lanh nhất “tối lưu ly” có công hàng đầu đưa nhân giả tới chỗ giác ngộ giải thoát, nhưng cũng có tội bậc nhất đưa nhân giả vào địa ngục cũng dễ dàng: “công vi thủ, tội vi khôi”; từ anh thứ nhất tới anh thứ năm (nhãn, nhỉ ,tỷ, thiệt, thân) chỉ lo việc buôn bán tiếp xúc với khách trần bên ngoài; còn Ông Chủ thì ở trong nhà lo tàng trữ cất giữ mọi “Tích Sản” trong nhiều đời nhiều kiếp là thức thứ tám (A-Lại-Da Thức). Anh A-Lại-Da này còn  có những nhiệm vụ đặc biệt như sau:

“Hạo hạo Tam Tàng bất khả cùng
  Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
  Thọ huân trì chủng căn thân khí
  Khứ hậu lai tiên tác chủ ông”.
  (Vòi vọi ba Tàng thật khôn cùng
   Vực sâu, “Bảy Sóng”chốn cuồng phong
   Nhận  gom giữ chủng căn thân khí 
   Đi sau đến trước, Chủ là Ông).

Nghĩa là thức thứ tám A-Lại-Da là Tàng Thức có ba Tàng mênh mông vòi vọi là: Năng Tàng (có công năng tàng trữ tất cả chủng tử (hạt giống) trong nhiều đời nhiều kiếp), Sở Tàng (là nơi tất cả Pháp hiện hành huân tập vào) và Ngã Ái Chấp Tàng (chấp cái kiến phần của thức này làm Ngã là người Chủ khả ái cố giữ chặt không buông tha). A-Lại-Da là cái “vực sâu” thăm thẳm chứa “Bảy Sóng” cuồn cuộn là chỗ tạo thành Gió Nghiệp luân chuyển là “tài sản” của Căn Thân và Sắc Trần (tức là khí) thọ nhận, huân tập trong nhiều đời nhiều kiếp rồi cầm giữ tích chứa thành Nghiệp Chủng. Thức này khi con người chết thì đi sau cùng; khi luân hồi thì thọ nhập vào bào thai trước hết, là Ông Chủ tạo tác dẫn Nghiệp tái sinh ở đời sau. Trong A-Lại-Da,“Bảy Sóng” cùng nổi lên (tức là Động) thì tạo nên Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi. Trong “Bảy Sóng” thì Ý Thức và Mạt Na Thức là tối quan trọng trong Mê hay Ngộ. Bởi vì Ý Thức là “tối lưu ly” là tinh khôn nhất , dẫn đầu trong việc chuyển Nghiệp; còn Mạt Na Thức thì “si mê” chỉ biết ôm chấp cái ngã chướng ô nhiễm là ngã kiến, ngã si, ngã mạn và ngã ái, không chịu buông tha nên bị trói cột vào Nghiệp hay Chủng Tử luân hồi. Hai thức này chuyển thì Ngũ Thức và Bát Thức tự động chuyển theo: “Lục thất “nhân” trung chuyển; ngũ bát “quả” thượng viên”. Khi đó thì ngũ thức (nhãn, nhĩ ,tỷ, thiệt, thân) biến thành “Thành Sở Tác Trí”, còn thức thứ tám (A-Lại-Da Thức) chuyển thành “Đại Viên Cảnh Trí” là Biển Tánh thanh tịnh. Sáu căn không khởi niệm tức “Vô Niệm”, Mạt Na Thức không khởi niệm tức “Vô Ngã” thì “Bảy Sóng” lặng yên tức là “Tĩnh”thì: “Bát Thức hữu thần uy, Tâm đăng minh Pháp Giới”. Nếu “Bảy Sóng” trong Bát Thức dấy động, nổi cuồng phong  dẫn Nghiệp tái sanh đẩy chúng sanh là Chánh Báo vào Biển Luân Hồi, thì “Bảy Sóng” trong hạt nguyên tử  do Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động tạo ra cái Sắc tức Y Báo là Thế Gian Mê cùng Nghiệp là căn nhà của Chúng Sanh Mê đang thọ Nghiệp. “Bảy Sóng” này là Bảy lớp “quỹ đạo electron” bị cột dính cứng chắc và quay chung quanh nhân nguyên tử (được xem như là Nghiệp vi tế) như những vòng tròn luân hồi, duyên khởi tạo tác thành thế giới vật chất từ Nguyên Tử cho tới Vũ Trụ là cái Sắc hay Y Báo của Chúng Sanh cùng Nghiệp Quả. Bát Thức cũng chính là Tâm, nếu “Bảy Sóng” trong Bát Thức lặng yên như chiếc Gương trong thì soi sáng cả ba ngàn Thế Giới: “Tâm đăng minh Pháp Giới”; thì “Bảy Sóng” trong cái Sắc cũng lặng yên, thế giới Mê tan hoại: Sắc trở về Không; cả Tâm và Cảnh (tức Sắc) Nhất Như đồng trở về Thế Giới Nhất Chơn, tức là cái Không hay Bát Nhã Chân Như…

Chứng Ngộ “Tự Tánh” đạt Tam Thân Tứ Trí với “Bảy Sóng” lặng yên tịch diệt này nhờ khai thị của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Trí Thông trình kệ:
“Tam Thân nguyên ngã thể
  Tứ Trí Bản Tâm minh
  Thân Trí dung vô ngại
  Ứng vật nhiệm tùy hình
  Khởi tu giai vọng động
  Thủ trụ phỉ chân tinh
  Diệu chỉ nhân Sư hiểu
  Chung vong nhiễm ô danh”.  

Nghĩa là nếu Ngộ rồi thì thấy Ba Thân nguyên là thể của chính mình, Tứ Trí là Bản Tâm sáng của mình, cả Thân và Trí đều dung thông vô ngại, khi đó tùy cơ ứng vật không bị vướng mắc. Còn như khởi niệm tu hành là vọng động; giữ trụ kềm chế thì không hợp với lẽ chân. Nhờ Thầy mà hiểu được diệu chỉ, cái danh hay cái tên là nhiễm ô cũng phải quên đi.
Rốt ráo lại, chứng được Tự Tánh hòa  cùng Biển Tánh thanh tịnh, đạt được Tam Thân Tứ Trí mà trong đó Bát Thức chuyển thành Trí cũng chính là Tâm. Sóng Nghiệp lặng yên, không còn ngã sở thì Tâm “Tịnh” hòa cùng Biển Tâm trùm khắp Hư Không vô biên, là chiếc “Gương” soi rõ ba ngàn Thế Giới cùng với Biển Tánh Chân Như là Một.

Như vậy Mê hay Ngộ chỉ có hai trạng thái TĨNH và ĐỘNG. Tĩnh là Chư Phật, Tổ và Thiền Sư ngộ Đạo. Còn Động là Chúng Sanh Mê trong sáu cõi luân hồi. Trong Mê thì có “Động”, trong “Động” có “Dụng”, nhất “Động” nhất “Dụng”, sinh ra “Hữu”, là cái tướng Mê do Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động, có cái “Tướng Động” là năng lượng chuyển thành khối lượng vật chất tạo ra Sắc Tướng Thế Gian Mê do Sóng Nghiệp hay Sóng Vô Minh duyên thành Sóng Vật Chất vi tế duyên khởi biến hóa thành nguyên tử cho đến vũ trụ, nguyên tử và vũ trụ đều “Động” mà hiện hữu. Thế Giới Mê tuy có Sắc Tướng nhưng không thật, chỉ là vọng khởi, huyễn ảo, là Bóng của cái KHÔNG vô hình tướng. Trái với Mê là Ngộ, trong Ngộ thì có “Tĩnh”, trong “Tĩnh” thì không “Động”, không “Động” thì không “Dụng”, không “Động” không “Dụng” là cái Tướng Không không Tướng, tức là “KHÔNG” là cái Tướng của Bát Nhã Niết Bàn. Thật ra Bát Nhã thì Như Như “Bất Động”, nhưng lại có cái “Dụng” là “Hay sanh muôn Pháp” là cái Diệu Hữu của Chân Như. Cái “Dụng” này là Vạn Pháp Thế Gian từ Gốc Tâm hay Mặt Trăng Thứ Hai trở ra Ngọn Tâm do “Động” mà huyễn hóa thành đủ thứ sum la vạn tượng hiện đầy trong Hư Không. Tuy nhiên dù “Hiện Hữu” nhưng không thật có, chỉ là huyễn hóa, là Tánh Không nên “Diệu”. Với con mắt Bát Nhã thì ngay trên Động mà Bất Động, ngay trên Dụng mà Không Dụng, ngay trên Pháp Thế Gian hay cái “Bóng Trăng” mà “trực chỉ” thấy “Mặt Trăng Thật”, thấy Sắc tức Không, tức là “Không Động” và “Không Dụng” ngay trên cái tướng “Động Dụng” của Pháp Thế Gian. Do đó trong “Tĩnh”, đâu đâu Vạn Pháp cũng đều Như! Do dứt Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động nên Sóng Vật Chất vi tế biến mất thì Vật Chất từ Nguyên Tử cho đến Vũ Trụ của Thế Gian Mê sụp đổ tan hoại: Sắc trở về Không. “Tĩnh” cũng như Mặt Nước Biển yên lặng thì Sóng mất, trở về với Nước. Trong “Tĩnh” : Sắc về với Không, Sóng về với Nước, tức là về lại Gốc, trở lại Nguồn, về Căn Nhà Xưa: căn nhà “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” vô thủy.

Nói tới “Động” và “Tĩnh”, cũng nên phân biệt cái “Động” và “Tĩnh” mà Lục Tổ Huệ Năng đề cập tới loài Hữu Tình như chúng sanh và loài Vô Tình như cây cỏ, đất đá… Hữu Tình là biết “Động”, còn Vô Tình thì không biết “Động”. Ở đây chỉ nói về hình thức bên ngoài của loài Vô Tình như đất  đá,…là “Bất Động” tức Vô Tri; khi không nói đến nội dung bên trong với những hạt hay sóng vật chất luôn luôn động. Nếu chấp cái “Bất Động” này để hành trì thì người Tu cũng giống như gỗ đá thì bất động vẫn là bất động, không thể đạt được cái “ Chân Thật Bất Động”. Vì vậy Lục Tổ Huệ Năng có nhắc nhở:

“Hữu Tình tức biết động
  Vô Tình tức không động
  Nếu tu hạnh bất động
  Đồng Vô Tình bất động”.

Muốn tìm cái “Chân Thật Bất Động”,  là loài Hữu Tình, chúng sanh có sáu căn hoạt động thì ngay trên “Động” có “Bất Động”, tức là ngay trên sáu căn (thấy nghe hiểu biết, xúc chạm…) là cái Tướng Động nhưng không đuổi theo sáu trần, nghĩa là tuy có thấy có nghe có hiểu biết… nhưng “không khởi niệm”. Đây chính là ngay trên “Động” có “Bất Động”, ngay trên niệm mà lìa niệm, tức “Vô Niệm” hay ngay trên cảnh mà lìa cảnh, tức “Vô Tâm”. Còn như bất động hoàn toàn: không thấy không nghe không hiểu biết…thì bất động vẫn là bất động, đồng với loài Vô Tình như đất đá cây cỏ, không có Phật Tánh:
“Nếu tìm Chân Bất Động
  Trên động có bất động
  Bất động là bất động
  Vô Tình không Phật Tánh.” (Lục Tổ Huệ Năng).  
Trở về cái Mê hay Ngộ ở hai trạng thái TĨNH và ĐỘNG. Ngay khi Ngộ thì Sắc về với Không: Chánh Báo và Y Báo đều hòa chung với cái Hư Không vô biên là Pháp Thân bình đẳng trong Hoa Tạng Pháp Giới. Ngay khi Ngộ thì Sóng hay Hòn Bọt mất, hòa với Biển Nước lặng yên; cái Ngã Sóng mất, cái Ngã Bọt mất, hòa thành Biển Cả bao la. Ngay khi Ngộ thì Thân Tâm mất, Thân là Pháp Thân: Hư Không vô biên, Tâm là Đại Tâm thành Biển Tánh bao la dung thông với tất cả Tánh. Con mắt “Vô” của Sa Môn thấy cái “Dụng” ở trong “Động” nhận ra tức thời cái “Thể” ở trong “Tĩnh”, thấy “Tướng” mà “Vô Tướng”, thấy Vật tức Tâm, thấy Sắc tức Không, thấy Đại Địa Quần Sanh là Thế Giới Nhất Chơn bình đẳng. Tất cả Sum La Vạn Tượng đều đồng loạt mở toang con mắt Bát Nhã rực cả Bầu Trời Hư Không vô tận: “Đại Địa Quần Sanh nhãn hoát khai”. Con mắt “Vô Tướng” của Tổ Long Thọ cũng vậy: Không thấy Như Lai đâu cả, mà đâu đâu cũng thấy Như Lai, không thấy Pháp Thân Phật đâu cả, mà đâu đâu cũng thấy Pháp Thân Phật, không thấy Niết Bàn đâu cả mà đâu đâu cũng gặp Niết Bàn, không thấy Bát Nhã đâu cả, mà đâu đâu cũng là Bát Nhã… Bởi vì tất cả cái thấy hay cái Chứng Ngộ này đều ở trong “Tĩnh” tức Vô Tác. Vô Tác ở đây cũng đồng với Vô Niệm, Vô Tâm hay vô sở trụ. Tất cả cái thấy “Vô, Vô Tướng, Vô Tác” này đều ở trong “Tĩnh”. “Tĩnh” là trở về cái Chân Lý vĩnh hằng và tuyệt đối của Vạn Hữu là “Sắc tức thị Không”.
Điều này được “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao. Chiêm Bao là do cái Tâm Mê đang “Động” hiện ra Thế Giới Chiêm Bao mà trong đó cái SẮC tức là Vật Chất và Vũ Trụ trong Chiêm Bao không có thật, chỉ là cái Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ mê trên giường biến chiếu ra và cái Thân Tâm này, Chúng Sanh trong Chiêm Bao không thể nhìn thấy mà chỉ thấy là Hư Không Rỗng Rang. Khi “Thức Dậy” tức là không còn Mê hay không ở trạng thái Động của cái Tâm Mê trong Chiêm Bao, mà ở trạng thái Tĩnh thì cái SẮC mất hay Vật Chất và Vũ Trụ trong Chiêm Bao mất, chỉ có cái “Thân Thật” ở trên giường đang “Thức Dậy”. Cái “Thân Thật” này giải mã cái Bí Mật mà chúng sanh trong Chiêm Bao không thể hiểu nổi. Nó biến hóa vô cùng: sơn hà, đại địa, mọi chúng sanh, cây cỏ, muông thú…cả ba ngàn thế giới Chiêm Bao, nó làm ngược rồi làm xuôi mà chúng sanh trong Chiêm Bao không hiểu không biết, nhìn thì chẳng thấy sờ thì không đụng, chỉ thấy Hư Không rỗng rang! Cái “Thân Thật” này vừa là Hư Không, Pháp Thân, Bát Nhã, Niết Bàn, Chân Lý tuyệt đối của Thế Giới Chiêm Bao, vừa là Thế Giới Nhất Chân: “Một là Tất Cả” hay cái Không vi diệu: “Không tức thị Sắc”… Đem  Tấm Bản Đồ Mộng “Nhắm Mắt Chiêm Bao” này chồng lên Tấm Bản Đồ Mộng “Mở Mắt Chiêm Bao” của Chúng Sanh hiện tại thì sẽ khám phá ra cái Đạo Lý siêu việt “Sắc tức thị KHÔNG”, chẳng những “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao mà còn “Thực Chứng” bằng Khoa Học như đã luận giải ở phần trên ! Người đi tìm Đạo có thể dựa vào hai cái “Thực Chứng” này để có niềm tin vững chắc đạt tới “Chánh Tín” và hình dung ra phần nào cái “Thực Chứng” của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo:


“Mộng lý minh minh hữu lục thú
  Giác hậu không không vô đại thiên”.
                                                                  (Thiền Sư  Huyền Giác). 
Nghĩa  là còn Mộng, còn Mê thì còn sáu ngã luân hồi, Giác rồi hay dứt Mộng hết Mê, Ngộ rồi hay đã Thức Dậy thì gặp cái KHÔNG, tức là Niết Bàn, Bát Nhã, Chân Như, Thực Tướng…Và khi đó ba ngàn thế giới cũng không có…Nghĩa là cái SẮC: từ nguyên tử Vật Chất cho đến Vũ Trụ đều “không có”, đạt đến cái Chân Lý tuyệt đối: “Sắc tức thị KHÔNG”.
Tóm lại còn Mê thì thấy Sắc, Ngộ rồi hay Thức Dậy thì Sắc mất trở về Không, trở về cái “Thân Thật” là Pháp Thân, là Thật Tướng là Niết Bàn, là Bát Nhã Chân Như…Cảm ơn Khoa Học và Nhà Bác Học Einstein đã phân tích tới cái tận cùng của Vật Chất là Sóng vi tế năng lượng cao và Năng Lượng có thể chuyển thành Khối Lượng Vật Chất và nhờ đó giải được cái Lý Sắc Không của Đức Phật Thích Ca. Nhưng Khoa Học dừng lại nơi cái Tướng Sóng hay cái Tướng Sắc mà không biết Sóng Vật Chất này cũng giống như Sóng Nước và như thế : Sóng trở về Nước cũng giống như Sắc trở về Không . Do đó Khoa Học không thể “nhảy qua đầu sào trăm trượng” của Thiền Sư Cảnh Sầm hay “cái cửa Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác để đạt tới cái Chân Lý rốt ráo và ngộ nhập với cái Chân Lý này. Tuy nhiên cũng nhờ Khoa Học mới biết được cái Đạo Lý tuyệt vời “Sắc tức thị Không” của Đức Phật Thích Ca cũng như những khai thị trợ duyên siêu việt của Tổ và Thiền Sư ngộ đạo. Tận đầu nguồn, vừa huốt khỏi cái Sắc, cái Sóng, cái máy động của Sự Vật trên hình tướng, tức là cái Vô Vi thì nhận ra được cái KHÔNG là Mẹ Đẻ ra tất cả mọi sự vật: từ nguyên tử vật chất cho tới cả vũ trụ. Như vậy đã quá rõ ràng với lời Kinh Bát Nhã:
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
  Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.  
Và lời Kinh này xem như đã được chứng minh bằng Khoa Học! Tuy nhiên Khoa Học chưa thấy được điều này, vì Khoa Học còn chấp trên hình tướng, nên bị “kẹt” hay bị chướng ngại, vừa đụng tới cái Gốc của Sự Vật là cái Không thì Khoa Học lại quay đầu trở ra cái Ngọn, tức là Khoa Học vẫn còn bị điên đảo ở nơi cái Bóng Trăng!
Giới hạn của Khoa Học là chỉ khám phá ra được phần “Dụng” trên vật hữu hình, hữu tướng, tức là nhận ra được cái Hiện Tượng hay cái Bóng Trăng. Còn phần “Thể” trên cái Vô Tướng, phi Sự Vật, tức là cái Bản Thể hay Mặt Trăng thật thì chưa khám phá ra được. Đức Phật đã nhìn thấy được cái Chân Lý tuyệt đối: Sắc tức thị Không. Và cái Không này, chính là Bát Nhã, là Thật Tướng, là Bản Thể của Vũ Trụ và Vật Chất… là Căn Nhà xưa của mọi Chúng Sanh trong sáu ngã Luân Hồi, là Niết Bàn thường lạc ngã tịnh. Muốn Ngộ Nhập hay trở về Căn Nhà xưa thì phải có cái Tâm tương ưng, huốt cả đường Tâm đạt tới cái "Tâm Không" là cái Tâm Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác, cái Tâm Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng hay cái Tâm Vô: Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm của Thiền Sư Đức Sơn… Cái Không là cái Chân Lý tuyệt vời của Vũ Trụ và Chúng Sanh là cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa mà Đức Phật với Trí Tuệ siêu việt khi đạt Chánh Đẳng Chánh Giác đã khám phá ra và chỉ đường rành rẽ cho Chúng Sanh với Tấm Bản Đồ Bát Nhã “Sắc tức thị Không” là Kim Chỉ Nam cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát.

             Đức Phật trao Tấm Bản Đồ “Bát Nhã”; Thiền Sư Huyền Giác chỉ con đường tắt: “Tuyệt học Vô Vi” tức là cái “cửa Vô Vi”: ( Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn ) để trực tiếp nhảy thẳng vào đất Như Lai hay căn nhà Bát Nhã :  ( Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa ) khỏi phải mất nhiều thời gian nhiều đời nhiều kiếp dò tìm như vào biển đếm cát, mà không đến nơi hay không tìm ra Đạo…Từ khi Đức Phật Thích Ca đạt Chánh Đẳng Chánh Giác, tìm được con đường Giải Thoát, có Đức Phật cung cấp Bản Đồ chính xác, có Thiền Sư Ngộ Đạo chỉ con đường tắt đến tận cửa vào mà các Ngài đã đi qua với những kinh nghiệm “Thực Chứng” vô cùng quý giá, tất cả chúng sanh từ đây được hưởng một ân huệ vô giá là có con đường Giải Thoát khỏi phiền não và sinh tử luân hồi ! Tuy nhiên vì thế lực Vô Minh cõi Ta Bà rất nặng nề và chúng sanh với đủ mọi thứ Cộng Nghiệp, Biệt Nghiệp sâu dầy trong nhiều đời nhiều kiếp, trong khi Phật Pháp chưa ra đời hay đã ra đời rồi nhưng chưa đủ duyên, con người từ sự mông muội, ngu si đi đến mê tín, cuồng tín rồi dục vọng, tham vọng quyền lực… nhưng rồi cũng tự thấy bất lực trước cái chết, sợ chiến tranh, thiên tai,  địa ách, dịch bệnh, già lão bệnh tật… cho nên đôi lúc cầu Thần Quyền hay “tự kỷ ám thị” bị loạn tâm loạn tưởng nằm mơ hay ảo giác tự cho là thấy Phật, thấy Thần, gặp mặt Thượng Đế… do Tâm Mê tạo tác để thỏa mãn cho cái Ngã cái Nghiệp hay tham vọng, dục vọng… lầm tưởng tự cho là Ngộ Đạo, là Sứ Giả của Thượng Đế, rồi tự xưng là Giáo Chủ của Một Tôn Giáo hay một Pháp Môn.Tuy nhiên cũng có rất nhiều người nghe theo vì đồng nghiệp và cộng nghiệp. Nhân danh Thượng Đế nhưng toàn làm chuyện Ác để thỏa mãn tham vọng của chính mình và cho rằng thay mặt Thượng Đế để trừng phạt kẻ Ngoại Đạo không tin Thượng Đế! Cũng có nhiều người thực tâm đi tìm Đạo, tự lập ra Pháp Môn tu tập, nhưng không tìm ra Đạo! Thời Đức Phật còn tại thế cách đây hơn 2500 năm, đã có tới những 96 mối Đạo, Tôn Giáo hay Pháp Môn như thế! Tuy nhiên, chỉ có duy nhất Đức Phật Thích Ca là tìm ra Đạo đạt Chánh Đẳng Chánh Giác. Rất nhiều Sa Môn ngoại Đạo như Bà La Môn hay các Tôn Giáo khác lìa bỏ những Pháp Môn hay Tôn Giáo của mình, đi theo Phật và cũng đắc Đạo! Còn tất cả những mối Đạo kia, nếu không phải là những Tà Thần, Tà Pháp hay Tà Giáo có tính cách Hoang Tưởng Mê Tín hay Cuồng Tín… thì cũng chỉ là những Pháp Môn hay Tôn Giáo của những “Đức tin” mơ hồ, cạn cợt, hoặc sai lầm, chưa đạt được mục đích Giải Thoát! Từ đó cho đến ngày nay ( thế kỷ 21) có một số Tôn Giáo mới ra đời. Tuy nhiên không có một Tôn Giáo nào có thể so sánh được với Đạo Phật về tính nhân bản, lòng nhân ái  bình đẳng, không giai cấp, không biên giới, không hận thù, không hiếu sát, không mê tín cuồng tín, có lòng khoan dung hỉ xã, sự an lạc cho tất cả chúng sanh. Một Đạo Phật  không có Giáo Luật ràng buộc hay cột trói tín đồ, đem lại một mùa Xuân yên lành và miên viễn cho tất cả mọi chúng sanh từ loài người cho đến loài vật chim muông cây cỏ…. Một Đạo Phật Trí Tuệ siêu việt và lòng Từ Bi vô hạn, đạt Chân Lý Giải Thoát!
Tuy nhiên, vì Pháp Trần là ô nhiễm Tham Sân Si và Nghiệp Chướng Vô Minh, cho nên gặp được Phật Pháp không phải là dễ, gặp được Chánh Pháp lại càng khó hơn. Đối với chúng sanh chưa đủ duyên lành, Nghiệp Chướng Vô Minh quá nặng, dù có gặp Phật Pháp, nhưng chưa chắc đã hiểu rõ hay ứng dụng được Phật Pháp cho mục đích Giải Thoát! Kinh Phật hay Pháp Phật, nếu qua tay phàm phu thì chỉ là một mớ văn tự suông vô giá trị, qua tay người mang nặng Tà Kiến, Tà Tư Duy thì trở thành Tà Pháp, còn qua tay người có Đạo hay các Chư Tổ và Thiền Sư thì trở thành Bảo Pháp của Phật giúp người trừ được phiền não và có thể đạt đến bờ Giải Thoát. Do đó Pháp  Phật không thể để cho kẻ phàm phu hay cho những người có tham vọng chính trị, quyền lực, danh vọng tiền tài vật chất hay tà kiến thế gian sử dụng hay diễn dịch tự ý theo cái Nghiệp hay cái Ngã Kiến, Sở Kiến sai lầm của mình. Phật từng nói: “Biết Ta mà không hiểu Ta, chỉ là hủy báng Ta!” . 
Ngày nay, có một số nơi Phật Pháp bị “pha chế quá liều” với Thế Gian Pháp và Giới Luật Nhà Phật thì rất lỏng lẻo. Phật Pháp ở đây trở thành Pháp chết, trống rỗng nặng nề về hình thức, hoặc mê tín… Đôi khi mượn danh Phật, mượn Pháp Phật, mượn Nhà Chùa để kinh doanh thương mại, hoặc làm chính trị, không có Đạo Giải Thoát.  Phật có cảnh báo trước : thời Mạt Pháp, Ma Phật lẫn lộn rất khó phân biệt. Nhiều Vị nói Phật Pháp, giảng Phật Pháp rất hay, nhưng chưa chắc đã là chân tu ! Có một Vị Đại Đệ Tử hỏi : “khi Phật nhập diệt rồi thì lấy ai làm Thầy ? ”. Phật trả lời : “hãy lấy Giới Luật làm Thầy”. Đây quả là thước đo khá chính xác! Do đó, hễ thấy Vị nào phạm nhiều Giới Luật như sống xa xỉ tiền tài vật chất phí phạm của bá tánh, kinh doanh thương mại, làm chính trị , nói sai sự thật, hay khoe khoang, trọng hình thức giả dối, không tinh tấn lo việc tu hành chỉ lăng xăng chạy theo đời bận rộn vẽ vời nhiều “Phật Sự”, nói láo hay vọng ngữ, cống cao ngã mạn, hay nóng giận, tham chức vụ, nhiễm danh lợi thế gian, nặng pháp trần, tà kiến vô minh, quan hệ nam nữ không trong sáng, giữ nhiều tiền bạc mờ ám… thì dù có thao thao giảng Pháp hấp dẫn cách mấy cũng nên lánh xa .
Ngoài  sự  xuống cấp của Nhà Chùa, sa sút Đạo Hạnh hay Giới Luật của Sa Môn ở một số nơi, Phật Pháp còn có khuynh hướng lệch lạc do sự pha trộn với nhiều Pháp Thần Quyền khác. Chẳng hạn như pha trộn Phật Pháp với Thượng Đế của Ngoại Đạo một cách gượng ép giống như trộn Nước với Dầu, không hoà tan được. Phật Giáo không chấp nhận Thượng Đế cũng như Lão Tử thẳng tay bác bỏ Thượng Đế. Những phạm trù như Đạo, Bát Nhã, Chân Như, Phật Tánh, Chân Không, Chơn Nhất, Tự Tánh, Bản Tế, Thực Tướng...của Phật Giáo hoàn toàn khác xa với phạm  trù Thượng Đế của Ngoại Đạo, một bên là Vô Ngã còn một bên là Hữu Ngã, trái ngược nhau.
Có Pháp Môn hay Tôn Giáo mượn sắc thái Phật Giáo nhưng thực chất  hoàn toàn phản Phật Giáo. Vị Giáo Chủ tự cho là ra đời để cứu thế, nhưng thực chất chỉ là một đảng chính trị với tham vọng quyền lực mượn Tôn Giáo làm bức "Bình Phong". Có Pháp Môn hay Tôn Giáo mượn danh Phật nhưng lại có cả quân đội trang bị vũ khí giết người. Điều này khác hẳn hoàn toàn với Đạo Phật Chính Thống của Đức Phật Thích Ca . Đức Phật Thích Ca đang ở địa vị "Cao Sang” bỏ ngôi Thái Tử , sống kham khổ để đi tìm Đạo Giải Thoát. Phật Thích Ca từ bi, không giết hại cả sinh vật cầm thú, sống một mình giữa rừng hoang, cần gì đến một đạo quân vũ trang với nhiều vũ khí giết người ! Có Pháp Môn hay Tôn Giáo, Vị Pháp Chủ  dùng pháp “Quán Âm” khi nghe được âm thanh của Thượng Đế là Đắc Đạo. Tuy nhiên trong Kinh Kim Cang Phật dạy: “Nhược dĩ Sắc kiến Ngã, Dĩ âm thanh cầu Ngã, Thị nhân hành Tà Đạo, bất năng kiến Như Lai?!”…
Có Pháp Môn lạm danh Thiền. Thoạt đầu mượn những chiêu Thiền thật đặc sắc của Phật của Tổ hay Thiền Sư ngày xưa làm vốn liếng nên có vẽ hợp Đạo. Nhưng về sau, tự  đem cái Ngã Sở, Tà Kiến sai lầm của mình vào thì  trở nên lạc lỏng vô vị.  Cống cao ngã mạn tự cho là Ngộ Đạo, chê Pháp Phật chỉ là xác chết không hồn, Kinh Phật chỉ là đống xương khô mục nát. Đem Thượng Đế của Ngoại Đạo vào Nhà Thiền chế tác thành những Pháp Thiền kỳ lạ quái gở chẳng hạn như Thiền Động (Dynamic Meditation) nghĩa là truớc khi ngồi Thiền cả tập thể nam nử ca hát nhảy múa với nhau cực kỳ sôi động...
Thiền Sư Huyền Giác than trách những ác tệ làm suy đồi Phật Pháp, làm hại chúng sanh trong thời đại Ngài, thì ngày nay những ác tệ xã hội       xâm nhập Nhà Chùa càng làm cho Phật Pháp suy đồi:
“Ta ! Mạt Pháp, ác thời thế 
   Chúng sinh phước bạc nan điều chế. 
   Khứ Thánh viễn hề, tà kiến thâm
   Ma cường, Pháp nhược đa oán hại”.
                              (Thiền Sư Huyền Giác).
(Than ôi! Mạt Pháp, thời thế ác
  Chúng sinh phước mỏng khó điều phục
Xa cách Hiền Thánh, tà kiến sâu
Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác tệ). 

             Chúng sanh thời Mạt Pháp , Vô Minh và Nghiệp Thức sâu dầy rất khó thấy Đạo. Phật Pháp suy đồi, xã hội càng văn minh thì càng bị Sáu Trần cuốn hút vào Lục Đạo Luân Hồi, nhất là ba đường ác. Văn minh khoa học vật chất giúp cho con người được thụ hưởng nhiều phương tiện ngày càng hiện đại, đời sống vật chất đầy đủ, phong phú đầy tiện nghi, nhưng con người dễ trở nên lười biếng, thích hưởng thụ và dễ sa vào tội ác.Sự đam mê hưởng thụ vật chất xa hoa khiến con người với cái Tâm Ác dễ phát triển và khó kềm chế. Tâm người từ cá nhân, gia đình cho đến xã hội và quốc gia...cố gắng chạy đua với nhiều tham vọng "Bất Chính" tạo nên cái "Tướng Xấu" của một Thế Giới Dục Vọng đầy rủi ro với thiên tai, địa ách,biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường, động đất, sóng thần, lụt lội, bão tố, bệnh dịch, chiến tranh cục bộ, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh nguyên tử...Đó cũng là Nhân Quả Nghiệp Báo do Tâm ác của chúng sanh tạo ra. Cho nên khắp cõi Ta Bà, cỏ dại thì vô số, ở đâu cũng có, Tùng Bách ngày càng khó tìm ! Biết được Phật Pháp là duyên lành khó gặp, biết được Chánh Pháp lại càng khó hơn. Biết Phật Pháp mà hiểu sai Chánh Pháp của Phật, biến Pháp Phật thành Pháp Ma mê tín, dị đoan, tà kiến... rồi "Buôn Phật, Bán Tổ" thì cũng chẳng hơn gì Vô Minh, chỉ là hủy hoại Phật Pháp thì đời đời chẳng khi nào có duyên gặp lại Phật Pháp...
Ma mạnh Pháp yếu dẫn dắt chúng sanh đi theo con đường Mê là do hành giả chưa đạt tới niềm tin Chánh Tín. Nghe hay đọc mà vội tin ngay thì dễ trở thành mê tín, tà tín rồi chấp vào sự mê tín, tà tín đó thành ra cuồng tín…Nếu chịu khó quán chiếu sâu sắc, suy xét, phân tích, truy tìm, học hỏi…như lời Đức Phật dặn dò: “phải thử nó như thử vàng”…thì mọi việc trắng đen sẽ hiển bày, nhận diện được chánh tà và khi đó có niềm tin Chánh Tín bắt đầu tu tập (Văn, Tư, Tu) thì mới không bị lầm lạc. Đức Phật có dặn dò rất kỹ dù là Kinh Sách ngày xưa để lại, hay lời nói của một Vị Giáo Chủ nổi tiếng, Truyền Thống lâu đời để lại…cũng đừng tin, mà phải suy xét, so sánh, phân tích cho thật kỹ nếu thấy đúng, hợp lý,có giá trị, có lợi ích thì mới tin. Từ đó “khám phá” ra được nhiều điều tưởng rằng linh thiêng, là pháp mầu là phép lạ… rốt cuộc cũng chỉ là trí thế gian vụn vặt, cạn cợt hoặc sai lầm của phàm phu. Cũng từ đó, giúp cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát khỏi bị lầm lạc : nhận Ma làm Phật, Phàm Tăng cho là Thánh Tăng, Tà Giáo cho là Chánh Giáo, Tà Pháp cho là Chánh Pháp… 
Điều chắc chắn mà không sợ bị lầm là cứ theo “Dấu Chân” của Phật của Tổ mà đi, vì các Ngài đã “Chứng Đạo” ; dựa vào Tấm Bản Đồ mà Phật đã trao từ Ngài Ca Diếp truyền qua 28 đời Tổ Sư cho tới Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Huyền Giác…tất cả đều nhờ Tấm Bản Đồ này mà Chứng Ngộ với Trí Tuệ Bát Nhã siêu việt thì hậu sinh có thể dùng Tấm Bản Đồ này mà không sợ bị lạc đường, cộng thêm với những Bí Quyết hay kinh nghiệm Chứng Đạo của các Ngài chỉ thẳng Cửa Vào thì con đường đi tìm Chân Lý Giải Thoát không còn xa vời như các Ngài đã khuyên bảo và khai thị…Còn đối với những Pháp Môn mới lạ của người đời nay, sau khi phân tích tận đầu nguồn thì rõ ràng chỉ là trí phàm phu cạn cợt, có cái rất sai lầm và ác tệ…không phải của người Chứng Đạo…
Như vậy, xét cho cùng thì hầu hết những Pháp Môn “hiện đại” ngày nay đều không có giá trị Tâm Linh, Chứng Ngộ hay Giải Thoát siêu việt như của Phật, Tổ và Thiền Sư ngày xưa ! Vậy thì tại sao người đi tìm Đạo ngày nay không theo dấu chân của Phật, của Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo ngày xưa, lại chạy theo “thời trang” chỉ có lớp sơn bên ngoài là đẹp, bên trong thì cạn cợt, lắm lúc sai lầm một cách đáng thương ! Ngày xưa cũng có những hiện tượng Phật Pháp suy đồi, nhưng nhờ có Thiền Sư Ngộ Đạo ra đời chỉ đường dẫn lối, nên Tà Pháp không thắng nổi Chánh Pháp:

“Bờ bên kia có Đức Sơn hiền Thánh
  Bao sớ Kinh một gánh đốt thành than
  Răng như gươm, miệng phun máu ngang tàng
  Dẹp ô nhiễm lan tràn nơi Cửa Phật”.

Thiền Sư Đức Sơn, thông suốt nhiều Kinh Tạng, nhất là Kinh Kim Cang còn có biệt danh là Chu Kim Cang. Ngài gánh nhiều Kinh Sớ đi lùng sục hang ổ của cái “đám Ma Vương” Thiền Tông phương Nam. Người ta tu rất nhiều kiếp còn chưa Ngộ, mà cái “bọn” này dám nói “Tu nhất kiếp, Ngộ nhất thời”, phải lấy Kinh Sớ ra chứng minh cho “bọn” này biết tay, để đền ơn Phật. Tuy nhiên sau khi Đại Ngộ với sự khai thị của Thiền Sư Sùng Tín, bị đánh cho một gậy, không ngó lại, đi thẳng lên đỉnh núi cao cất am tranh, răng như rừng gươm, miệng như chậu máu, quở Phật mắng Tổ, truyền cái Đạo của Ngài Sùng Tín. Quở Phật mắng Tổ: Ý nói khi đã Ngộ, thấy được cái thấy của Phật của Tổ, vì quá kính Phật trọng Tổ mà phải dùng “lời nghịch” để diễn tả. "Răng như rừng gươm, miệng như chậu máu": Ngài mắng các vị “Phàm Tăng”, không chịu lo tu để Ngộ Đạo cứu khổ chúng sinh….Pháp của Ngài sắc bén, thủ thuật kỳ đặc mạnh mẽ. Khi “Mưa Pháp” thì “răng như rừng gươm, miệng như chậu máu” chém đứt Vô Minh, rũ sạch Tà Kiến, tận diệt Ngã Chấp…dễ đưa người tới chỗ Ngộ Đạo.  
Tóm lại, LÊN ĐƯỜNG đi tìm ĐẠO GIẢI THOÁT cứ nắm vững Tấm Bản Đồ của Phật, Tổ hay Thiền Sư ngộ Đạo ngày xưa mà đi thẳng, không nên ghé vào “Bến Bãi” của Pháp Trần hay của Ngoại Đạo mà lạc mất phương hướng !
*Thiền Tông, Tịnh Độ và Pháp Môn Niệm Phật
Trong tất cả Pháp Môn, Thiền Tông đặt Trí Tuệ lên hàng đầu, nhưng lại bị mang tiếng là thời Mạt Pháp rất khó tu, rất ít hoặc không có người thành Đạo ?! Ngày xưa Đức Phật Thích Ca “chủ động” đi tìm Chân Lý và đạt được Chân Lý. Các Tổ và Thiền Sư nhờ có Đức Phật đi trước dẫn đường, noi gương Phật, học theo Phật, "chủ động" đi tìm Chân Lý và cũng đạt được Giác Ngộ Giải Thoát. Đức Phật nhiều lần căn dặn : “Các ngươi hãy tự đốt đuốc lên mà đi và đi với Chánh Pháp”! Đức Phật Thích Ca tu Thiền mà thành Đạo, thuyết Pháp nhiều Kinh Điển siêu việt, trực tiếp cứu khổ chúng sanh cõi Ta Bà. Người đời gọi "Con Đường" của Đức Phật là Đạo Phật hay Đạo Giác Ngộ. Từ khi Đạo Phật hay Đạo Giác Ngộ của Đức Phật Thích Ca phát triển đến Trung Hoa và Việt Nam, Thiền Tông đứng một vị trí sáng chói và ưu việt. Sa Môn Phật tu học lâu năm trong Nhà Chùa hầu hết đều trở thành giới trí thức uyên bác thắm nhuần Đạo Lý cao siêu của Đức Phật, Giới Luật nghiêm túc, xứng đáng là Trưởng Tử Như Lai dìu dắt chúng sanh. Đặc biệt trong thời Lý,Trần; Sa Môn Phật gồm cả hàng Vua Chúa, Quan Lại...là những bậc Cao Tăng lỗi lạc ! Tuy nhiên vì thời thế, Thiền Tông nhiều lúc thịnh suy bất thường. Kinh Điển lại thâm sâu khó hiểu, hầu hết kinh sách  ngày xưa đều là chữ Hán, không thích hợp cho đại đa số dân chúng bình dân. Khi Việt Nam bị lệ thuộc Pháp gần 100 năm, lại bỏ chữ Hán học chữ quốc ngữ, do đó Kinh Tạng chữ Hán rất ít có người đọc được để tham cứu ! Ngay như ở Trung Hoa, mặc dù Kinh Sách phong phú, nhưng thời thế không cho phép nên Phật Giáo nói chung và Thiền Tông nói riêng bị mai một không phát triển, lắm lúc còn bị hũy diệt hoàn toàn như đã từng xãy ra ở Ấn Độ, A Phú Hản, Mả Lai, Nam Dương... Do đó, nhiều người tin rằng càng về sau thì Mạt Pháp càng nặng, thì phải tu theo Tịnh Độ vì Tịnh Độ đơn giản rất dễ tu, bình dân dễ quảng bá sâu rộng trong đại đa số quần chúng, nhất là duy trì cho Phật Pháp được trường tồn . Tịnh Độ nương tựa Đức Phật A-Di-Đà làm cứu cánh, cầu xin nơi “Tha Lực” vô biên của Ngài, chỉ cần niệm 10 "danh hiệu" Ngài là được rước về Quốc Độ do Ngài lập ra là cõi Tây Phương Cực Lạc để tu tiếp thì quả thật là dễ dàng. Cõi Cực Lạc rất dễ tu, tu không thoái chuyển, nhất là không còn sinh tử, không bị Ma Chướng quấy nhiễu làm hại. Còn tu Thiền theo Đức Phật Thích Ca vào thời Mạt Pháp thì không còn hợp thời, rất khó thành Đạo?!

Tuy nhiên, theo gương của Đức Phật Thích Ca và lời khuyên của Ngài : “Đừng tin những gì do kinh sách ngày xưa để lại, kể cả lời nói của một Vị Giao Chủ nổi tiếng…mà phải suy xét phân tích cho thật kỹ” hoặc “Các ngươi hãy tự đốt đuốc lên mà đi và đi với Chánh Pháp” nên ngày nay có rất nhiều người vẫn tiếp tục tu Thiền . Đức Phật Thích Ca chứng Đạo không phải nhờ cúng lạy và cầu xin mà tự thân tìm  Đạo bằng Trí Tuệ và Đạo của Ngài là Đạo của Trí Tuệ : “Duy Tuệ Thị Nghiệp”. Thật ra vào thời "Chánh Pháp" khi Đức Phật ra đời và sau đó vài trăm năm, vì Ánh Sáng Phật Pháp của Ngài quá mạnh , ân đức quá rạng rỡ,  Ma Chướng không dám lộng hành. Giới Luật do Đức Phật đặt ra chỉ để phòng ngừa, ít có người sai phạm. Còn ngày nay hay thời "Mạt Pháp", sau khi đã trải qua nhiều cơn suy thịnh bất thường, Phật Pháp chẳng những chưa hồi phục như ý, lại có thêm nhiều triệu chứng suy đồi : "Ma mạnh Pháp yếu nhiều ác tệ". Tuy nhiên, Đức Phật đã tiên đoán trước và đặt ra “Giới Luật” là phương tiện  đối trị  Ma Chướng rất công hiệu, bảo vệ người tu. Tin tưởng lời Phật dạy: lấy "Giới Luật" làm Thầy,"Chánh Pháp" làm con đường đi, quyết theo dấu chân Phật, thì phải có ngày tới đích : "Hậu nhân đắc Đạo hà cùng số"! Phật, Tổ và các Thiền Sư ngày xưa tu Thiền mà đắc Đạo. Theo chân Phật, noi gương Tổ, học Kiếm Thuật Bí Truyền của  Thiền Sư, thì người tu Thiền ngày nay cũng sẽ đạt Đạo. Hơn nửa, các Ngài còn để lại nhiều kinh nghiệm sâu sắc là gia tài vô giá dành cho hậu thế, chỉ rõ con đường tìm Đạo chân thật. Có Tấm Bản Đồ "Bát Nhã" của Phật ở trong tay, hạt giống "Phật Tánh" sẳn có, nắm vững "Kiếm Thuật Bí Truyền" của Tổ, lại thêm "Giới Luật" nghiêm túc để đối trị với Ma Chướng trong thời Mạt Pháp, thì Cửa Nhà Thiền vẫn rộng mở chờ đón  Kiếm Khách Giang Hồ nơi nơi đến luyện "Bát Nhã Kiếm"  !

“Đệ nhất Ca Diếp thủ truyền đăng
   Nhị thập bát đại Tây thiên ký
   Pháp đông du ,nhập thử thổ
   Bồ Đề Đạt Ma vi Sơ Tổ
   Lục đại truyền y thiên hạ văn
   Hậu nhân đắc đạo hà cùng số”.

(Thoạt tiên Ca Diếp đèn Tâm truyền
  Hăm tám đời Tổ Sư Tây Thiên
  Pháp sang Đông vào Trung thổ
  Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ
  Sáu đời y bát thiên hạ nghe
  Người sau đắc đạo nhiều vô số). (Thiền sư Huyền Giác)

Thực tế ngày nay, dù là thời Mạt Pháp, Thiền Tông vẫn rất thịnh hành,  chẳng những không bị mai một mà còn thích hợp ở mọi nơi và mọi thời đại . Hình ảnh Đức Phật Thích Ca ngồi Thiền nhập định phổ biến khắp nơi như là một biểu tượng tâm linh siêu việt được chúng sanh kính trọng và ngưỡng mộ ! Cùng là Phật Giáo Bắc Tông, bên cạnh Thiền Tông, Tịnh Độ phát triển nhưng hạn chế trong một số quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Việt Nam, Đài Loan...Còn các quốc gia Lào, Kampuchia, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan…thì theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy hay Nam Tông, chỉ biết Phật Thích Ca , Kinh Điển Nguyên Thủy  không nói đến Phật A-Di-Đà. Đối với người  Phương Tây thì Tịnh Độ ít được biết đến như Thiền Tông...Thật ra trong Pháp Môn Tịnh Độ cũng có Thiền, nhưng mục đích chính của Tịnh Độ là cầu được vãng sanh Cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà, khác với Thiền Tông.  Tịnh Độ cũng dùng nhiều Kinh như Thủ Lăng Nghiêm, Bát Nhã Tâm Kinh, Kinh Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ...v.v..., nhưng Kinh A-Di-Đà là gốc căn bản. Pháp Môn Niệm Phật là cách hành trì rất phổ biến của Tịnh Độ. Thông thường, Tịnh Độ dùng Tướng Niệm tức là dùng âm thanh sắc tướng, hình thức cúng lạy niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, trụ nơi Tướng Phật A-Di-Đà để cầu xin được Vãng Sanh Cực Lạc.

1-Niệm Phật nơi “Phật Tướng” với Tướng Niệm :
Niệm Phật A-Di-Đà cầu Vãng Sanh Cực Lạc.

Theo Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông, Pháp Môn Tịnh Độ cầu Vãng Sanh về Cõi Tây Phương Cực Lạc để cứu chúng sanh, rước chúng sanh về một nơi an toàn, không còn luân hồi, để tiếp tục cuộc hành trình tu tập. Gọi là Cực Lạc vì thế giới đó không còn khổ, tu không thối chuyển, có sông suối, chim ca, gió hú, có 7 báu toàn là lưu ly, bách ngọc, mã não, sa cừ…cảnh đẹp vô cùng vô tận, nhất là không có sinh tử, tiếp tục tu cho đến Cửu Phẩm Liên Hoa đạt đến Niết Bàn rốt ráo…Được Vãng Sanh về Cõi Tây Phương Cực Lạc thì không còn bị ám ảnh bởi cái chết nữa, bởi vì cái chết thật là đáng sợ đối với hầu hết chúng sanh nhất là bị lôi cuốn trong vòng luân hồi dài vô tận, không có lối thoát, nếu Nghiệp Chướng nặng thì bị đầu thai vào ba đường ác là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh không biết làm sao thoát ra được, thì thật là khủng khiếp càng đáng sợ hơn!

Cũng theo Kinh Điển Hán Tạng, khi còn ở cõi Ta Bà chỉ cần tu theo Tịnh Độ, niệm Lục Tự Di Đà là: “Nam Mô A-Di-Đà-Phật” là được cứu độ. Theo lời phát nguyện của Phật A-Di-Đà chỉ cần niệm hồng danh Ngài có 10 tiếng trước khi chết thì được Phật độ về Cõi Cực Lạc tức được Vãng Sanh. Thật ra khi còn sống hay trước khi lâm chung người ta đã niệm hàng trăm thậm chí hàng ngàn lần, ngoài ra còn được các Chư Tăng hay cả một ban hộ niệm trợ duyên trước khi, trong khi và sau khi lâm chung… Rồi trong vòng thời gian 49 ngày (7 thất) còn được cúng thất, niệm Phật, đọc Kinh và cuối cùng là cúng 100 ngày. Ngoài ra còn cúng trai tăng, cúng sám hối cho vong linh, phóng sinh làm phước…Tất cả đều thật chu đáo… thì niềm tin được Vãng Sanh về Cõi Cực Lạc rất lớn. Trong khi Thiền Tông thì không có cúng lạy, cúng vong, niệm hay hộ niệm nhiều như thế… Như vậy xem ra Thiền Tông không có độ cho người chết ?!

              Tỳ Kheo Pháp Tạng (tức Phật A-Di-Đà sau này) vì lòng Từ Bi rộng lớn muốn độ hết thảy chúng sanh nên có 48 lời nguyện trong đó lời phát nguyện thứ 11 nói rằng: “Một hành giả nào chỉ niệm 10 niệm danh hiệu Ta mà không Vãng Sanh Tây Phương thì ta nguyện sẽ không thành Phật”.
Và rồi Tỳ Kheo Pháp Tạng đã thành Phật và danh hiệu Ngài là A-Di-Đà. Dựa vào sự kiện này mà có một số Vị Pháp Sư Tịnh Độ tin tưởng rằng vì Phật không bao giờ nói dối, các Vị nhấn mạnh đến tha lực của Phật và hiểu rằng tha lực của Phật là vô tận, là Thượng Đế muốn làm gì cũng được cầu xin là cho ngay và lời phát nguyện thứ 11 kia phải là sự thật. Do đó một số các vị Pháp Sư và Phật Tử tin chắc vào điều này và cho rằng tu theo Tịnh Độ thì rất dễ, chỉ cần niệm Phật 10 niệm là được về Tây Phương, trong khi có nhiều người đã niệm Phật gấp trăm gấp ngàn lần như thế và còn đang tiếp tục niệm Phật; do đó có những Vị Pháp Sư mạnh dạn tuyên bố theo Tịnh Độ 100% là được Vãng Sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A-Di-Đà, mang cả Nghiệp Chướng về cõi đó tu tiếp cho đến Cửu  Phẩm Liên Hoa đắc Đạo, dễ hơn Thiền Tông rất nhiều...Do đó, thời Mạt Pháp đương nhiên là phải tu theo Tịnh Độ, không nên tu Thiền ? ! Điều này làm cho nhiều hành giả Lên Đường tìm Đạo Giải Thoát hoang mang trước ngả ba đường không biết chọn lựa con đường Tịnh Độ hay là Thiền Tông...

Tuy nhiên dựa vào câu nói của Đức Phật Thích Ca: “Đừng tin những gì do Kinh Sách từ xưa để lại, kể cả lời nói của một Vị Giáo Chủ nổi tiếng… mà phải suy xét, phân tích cho thật kỹ…” cho nên có nhiều người phản biện về luận điểm trên, cho rằng Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông là thời kỳ Phật Giáo Phát Triển mấy trăm năm sau không phải của Đức Phật Thích Ca, trong khi Kinh Điển Pali của Phật Giáo Nam Tông mới là Kinh Phật chính thống và những Bộ Kinh này không có nói đến Phật A-Di-Đà ! Ngay trong quan điểm Phật Giáo Bắc Tông cũng có nhiều luận giải phản biện. Chẳng hạn như có luận giải rằng: 48 lời phát nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng chỉ là NHÂN. Vì lòng Từ Bi rộng lớn mà Vị Tỳ Kheo này phát nguyện để cứu chúng sanh. Nhưng ! Lời hứa là lời hứa còn Chân Lý hay Thực Tại thì vẫn là Chân Lý hay Thực Tại. Khi đắc Đạo trở thành Phật A-Di-Đà đạt QUẢ Vị Phật thì lại khác, phải trở về Thực Tại hay Chân Lý trong đó Luật Nhân Quả phải được tôn trọng đối với chúng sanh chưa chứng ngộ Vãng Sanh, còn mang đầy Nghiệp Chướng và Tham Sân Si! Lầm lẫn cho NHÂN Vị cũng là QUẢ Vị, thì không đúng với Thực Tế hay Chân Lý! Nói theo Pháp Thế Gian là “chí công vô tư” hay “Luật Nước” khác với “Lệ Nhà”. Còn nói theo Phật Pháp là cái thấy của Tỳ Kheo Pháp Tạng lúc “chưa chứng Đạo” khác với cái thấy của Tỳ Kheo Pháp Tạng “đã chứng Đạo” trở thành Phật A Di Đà! Chuyện thành Phật là do công đức tu tập riêng hay cái khả năng riêng của Ngài, Ngài có từ chối cũng không được. Bởi vì một khi có đủ công đức đạt Quả Vị Phật, dù có từ chối thì cũng là Phật; còn chuyện lời hứa hay lời phát nguyện của Ngài để cứu chúng sanh là một vấn đề khác. Dù thành Phật, Ngài không thể sửa đổi được Chân Lý hay Luật Nhân Quả! Do đó mặc dù cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A-Di-Đà là do Tâm của Ngài với 48 lời nguyền mà hiện ra thành lập một Quốc Độ hay một Cõi Nước riêng A-Di-Đà. Nhưng muốn đến Cõi Nước đó cần phải có giấy phép “xuất cảnh” ở cõi Ta Bà, đó là luật Nhân Quả, phải hoàn tất hết mọi thủ tục “thuế quan” hợp pháp đúng với Chân Lý ! Nói theo Pháp Thế Gian là ‘‘Luật Nước’’ khác với ‘‘Lệ Nhà’’. Phải chí công vô tư, không thể lấy Lệ Nhà mà thay cho Luật Nước được, cũng như không thể lấy cái nguyện vọng hay mơ ước riêng tư mà thay cho cái Thực Tại Chân Lý được !  Đức Phật từng nói “hãy đến để mà thấy” tức là đến để mà thấy cái Thực Tại Chân Lý hiện bày bằng Thực Chứng, không phải chỉ ‘‘đến để mà tin’’.

Chân Lý giống như một Lâu Đài cổ nguy nga tráng lệ có tự đời nào không biết và cũng không biết do ai làm ra. Trên đường đi tìm Chân Lý bỗng nhiên Đức Phật tìm thấy nó xuất hiện giữa khu rừng hoang dầy đặc cây cối che khuất. Sau khi định vị Lâu Đài, Đức Phật trở về chỉ đường cho chúng sanh đến để thấy Lâu Đài đó. Lâu Đài này không phải do Đức Phật làm ra, Đức Phật chỉ là người “khám phá” ra nó. Mọi giá trị như đồ dùng, cây cảnh, nghệ thuật điêu khắc có trong Lâu Đài đều tự nó là như vậy như luật Nhân Quả, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo… là Chân Lý tuyệt đối có tự nhiên trong Lâu Đài Bát Nhã mà  Đức Phật không thể sửa đổi được nó. Đối với Phật A Di Đà cũng vậy, Ngài chỉ là người khám phá ra Lâu Đài cổ đó; mọi thứ đã có sẵn trong Lâu Đài, Ngài không thể sửa đổi được ! Ngài cũng không thể vì lời phát nguyện kia không độ được hết thảy chúng sanh về Cõi Nước của Ngài mà không làm Phật, bởi vì “Chân Lý là như vậy”! Điều này hoàn toàn khác hẳn với cái gọi là  “hãy đến để mà tin”, tức là chỉ có niềm tin suông mà không thấy không biết và đây là đa số truyền thống bản chất của các Đức Tin Thần Quyền của Ngoại Đạo, nó giống như “chiếc bánh ở trên bầu trời” (the pie-in-the-sky) người ta không thể nhìn thấy nó, không nếm được mùi vị của nó, không thể ăn được nó, chỉ “tin để mà tin” là có nó mà thôi ! Như vậy trong Lâu Đài Cổ Chân Lý Tuyệt Đối mà Chư Phật đã khám phá, Luật Nhân Quả bao trùm khắp  vũ trụ và mọi Pháp Giới, không thể sửa đổi được! Thuở xưa có một vị Tăng hiểu lầm Nhân Quả rồi dạy cho chúng sanh cũng hiểu lầm và mê muội theo mình mà phải bị đọa làm 500 kiếp chồn, sau nhờ Thiền Sư Bá Trượng khai thị giải tỏa cho sự mê lầm “bất muội nhân quả” mà trở lại kiếp người, tiếp tục cuộc đời tu.

Tóm lại, dựa vào những luận giải phản biện, xét rằng Phật A-Di-Đà tuy có lòng từ bi bao la muốn độ hết tất cả chúng sanh về cõi nước của Ngài, nhưng trong Thực Tế của Chân Lý, Ngài mặc dù đã thành Phật nhưng không thể nào sửa đổi được Luật Nhân Quả ! Chỉ khi nào đã Ngộ rồi, đạt Thể Tánh Không, tất cả Nghiệp đã chuyển hoá thành Không thì khi đó mới không còn Nhân Quả. Trên Thể Tánh Không ấy, tất cả đều phi Nhân Duyên phi Tự Nhiên phi hoà phi hợp Pháp Nhĩ Như Thị !

“Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
  Vị liễu ưng tu hoàn túc trái”
(Ngộ rồi nghiệp chướng hóa  thành không
  Chưa ngộ, nợ xưa đành trang trải).
                                    (Thiền Sư Huyền Giác). 
Ở đây không bàn đến đúng sai với những luận điểm phản biện trên, cũng không bàn đến đúng sai giữa Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông và Kinh Điển Pali của Phật Giao Nam Tông, mà chỉ bàn về Niệm như thế nào để đạt tới cứu cánh. Ngoài Niệm Phật nơi “Phật Tướng” với Tướng Niệm, Tịnh Độ còn hướng tới một bước cao hơn là Niệm Phật nơi Phật Tâm với Tâm Niệm.

2- Niệm Phật nơi Phật Tâm với Tâm Niệm :
“Nhất Tâm Bất Loạn”.

  Kinh A Di Đà nói đến 10 niệm danh hiệu Phật, nhưng thật ra không phải chỉ là 10 niệm danh hiệu suông. Vãng Sanh vào cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc là cả một quá trình tu chứng công phu lâu dài: tạo thật nhiều phước đức công đức, nhiều căn lành diệt tham sân si chuyển hóa Tâm Thức như quả vị Thánh, quán tưởng sâu sắc bản chất Cõi Tịnh Độ. Điều tối quan trọng là Phải “Nhất Tâm Bất Loạn”: Niệm Phật cho đến Nhất Tâm Bất Loạn. Hoặc thực thi Bát Chánh Đạo và phải đạt tới Nhất Tâm là Chánh Định. Bất Loạn là giữ được Chánh Định như thế xuyên suốt thời gian ngồi Thiền, tụng Kinh, niệm Phật, ăn cơm, đi đứng nằm ngồi...

Lời phát nguyện thứ 11của Phật A Di Đà nói rằng: “Một hành giả nào chỉ niệm 10 niệm danh hiệu Ta mà không Vãng Sanh Tây Phương thì ta nguyện sẽ không thành Phật”. Lời nói này thật ra rất dễ gây sự hiểu lầm rằng chỉ cần niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà là chắc chắn sẽ được Vãng Sanh vào cõi Tây Phương Cực Lạc! Tức là thành khẩn cầu xin gọi tên Phật A Di Đà 10 lần thì Ngài sẽ độ về cõi nước của Ngài là Tây Phương Cực Lạc. Thật ra nếu chỉ gọi tên Phật A Di Đà, ngay cả gọi tên Phật Thích Ca hay Vô Lượng Phật khắp mười phương cho đến 1 triệu lần để cầu được Phật rước về cảnh giới  Phật, mà không tinh tấn tu hành để tạo một công năng công đức nào cả...thì rất  khó đạt mục đích và dễ đi đến chỗ mê tín ! Vì Phật nào mà không có lòng từ bi vô lượng muốn độ hết chúng sanh ! Điều mà Phật Thích Ca không làm được, Vô Lượng Phật khắp mười phương không làm được, thì Phật A Di Đà cũng không làm được! Cho nên không thể tin rằng chỉ cần 10 niệm danh hiệu ‘‘suông’’ Phật A Di Đà là được vãng sanh Tịnh Độ hay Cực Lạc ! Thật ra Kinh Điển chỉ là Ngón Tay để chỉ Mặt Trăng, không phải là Mặt Trăng thật. Đừng cho Ngón Tay là Mặt Trăng mà phải biết cách nương vào Ngón Tay như thế nào để có thể gặp được Mặt Trăng thật. Mặt khác, chính Đức Phật Thích Ca cũng hoài nghi về Kinh Điển, Ngài đã từng dặn dò: ‘‘Đừng tin những gì do Kinh Sách từ xưa để lại, kể cả lời nói của một Vị Giáo Chủ nổi tiếng…mà phải biết suy xét, phân tích cho thật kỹ, nếu thấy nó đúng, hợp lý, có lợi ích thì mới tin…’’. Do đó, không cần phải biết chính xác Kinh A Di Đà có phải thật sự là của Phật hay không và có lời phát nguyện thứ 11 hay không, mà điều quan trọng là phải phân tích suy xét thấy nó hợp lý và lợi ích như thế nào thì mới có thể tin và áp dụng. Chẳng hạn như Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng hay  những luận giải của các Thiền Sư Ngộ Đạo, tuy không là của Phật nhưng dựa trên sự ‘‘Chứng Ngộ’’ hay “Thực Chứng” và khi phân tích suy xét thì thấy hợp lý và có lợi ích cho nên có thể tin và áp dụng. Ở đây Kinh A Di Đà với lời phát nguyện thứ 11 có thể hiểu rằng lời phát nguyện này phải có một ẩn dụ sâu kín hay một ý nghĩa thâm áo, không phải là ý nghĩa thường tình theo văn tự "suông" ! Niệm Phật dù là Niệm Phật A Di Đà  hay Niệm Phật Thích Ca, là một trong nhiều cách để điều Tâm diệt trừ vọng tưởng làm cho Thân Tâm được thanh tịnh. Niệm Phật nơi Tướng Niệm dùng âm thanh sắc tướng và nương tựa vào Phật Tướng bên ngoài chỉ là bước đầu, nhờ niềm tin nơi ‘‘tha lực’’ của Phật mà được an định nơi Tâm . Nhưng một khi Tâm đã an định thì ngay nơi Tướng Niệm với âm thanh sắc tướng mà lìa âm thanh sắc tướng rồi bỏ luôn cả âm thanh sắc tướng mà đi sâu vào Tâm với Tâm Niệm. Niệm Phật A Di Đà nơi đây không còn chấp trên cái tên giả danh hay giả tướng A Di Đà, chấp nơi Tướng Niệm với Tướng Phật A Di Đà bên ngoài, mà  buông cả Tướng để đi sâu vào Tâm với Tâm Niệm và Phật A Di Đà nơi Tự Tâm là Phật Tâm không còn là Phật Tướng ! Niệm cho tới “Nhất Tâm Bất Loạn” và chỉ cần 10 niệm như thế thì mới được Vãng Sanh Cực Lạc Quốc! Như vậy, 10 câu niệm Phật này : thứ nhất là phải “Nhất Tâm Bất Loạn’’, thứ hai là phải “liên tục’’. Thực hiện mười câu niệm Phật này không phải dễ mà vô cùng khó khăn, thật  nhiều công phu, công đức và trí tuệ sâu dầy ! Bởi vì Tâm thường chạy theo lục trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Đang niệm Phật thấy hình tướng Phật, không lìa được Sắc là loạn, nghe âm thanh, không lìa được Thanh là loạn, ngửi mùi nhang không lìa được Hương là loạn, niệm Phật khô đắng cả miệng không lìa được Vị là loạn, quỳ mỏi cả thân mà không lìa được Xúc là loạn, niệm trong ý không lìa được Pháp là loạn. Tất cả đều làm cho Tâm loạn ngay trong câu niệm Phật chỉ thấy toàn là Nghiệp mà không thể thấy được cảnh giới Phật A-Di-Đà. Niệm Phật  nghe một tiếng chuông, chạy theo âm thanh, câu niệm Phật bị “ thanh niệm” xen vào nên không còn liên tục. Niệm Phật , vọng tưởng hiện ra, “vọng niệm” xen vào nên không còn liên tục. Niệm Phật  cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ (hôn trầm) “thân niệm” xen vào nên không còn liên tục. Niệm Phật, thấy mình  là người đang niệm Phật, “ngã niệm” xen vào nên không còn liên tục. Niệm Phật, thân tâm đều động, “động niệm”  xen vào nên không còn liên tục… Đây là những “Niệm Thô’’ dễ nhận diện, nhưng rất khó tiêu trừ làm cho câu niệm Phật bị gián đoạn không liên tục và loạn Tâm. Ngoài “Niệm Thô’’ lại còn “Niệm Tế’’ rất tinh vi, phải là những Bậc tu hành công đức sâu dầy trải nhiều chứng nghiệm mới hy vọng kềm chế được. Như đã luận giải ở trên, đó là Bảy Sóng (Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức và Mạt-Na-Thức) chứa trong A-Lại-Da-Thức. Nghiệp Chủng chứa từ nhiều đời nhiều kiếp tàng trữ trong A-Lại-Da (Thức Thứ Tám) dưới dạng Sóng Nghiệp tức Bảy Sóng. Mỗi một Sóng hay một chu kỳ Sóng là một niệm Vô Minh. Có vô số niệm hay sóng vi tế như  thế chứa đầy trong Tâm (A-Lại-Da) tuy chưa nổi lên hiện hành nhưng vẫn tự do phục binh chờ sẵn ẩn nấp nơi đáy Tâm sẵn sàng “nổi loạn’’. Nhiều lúc Tâm lặng yên như mặt nước biển, nhưng thật ra đang có những dòng nước chảy ngầm dưới đáy là vô số những Sóng Nghiệp vi tế đang âm ĩ sâu kín  nơi đáy Tâm chưa được chuyển hóa , tiêu hóa hay kềm chế. Làm sao cột trói chặt được những Sóng Nghiệp vi tế này để chúng không còn tự do nổi lên hiện hành hoặc chuyển hóa, tiêu hóa được chúng ; khi đó Tâm mới  thực sự lặng yên hay Bất Loạn. Đây phải là một quá trình công phu lâu dài, công đức dày dạn, trí tuệ thâm áo do chính nơi Tự Tâm. Chỉ cần Niệm Phật được 10 niệm Liên Lục và Nhất Tâm Bất Loạn như thế là đạt tới Tâm thanh tịnh A-Di-Đà, chứng ngộ Vãng Sanh có thể sánh ngang với quả vị Thánh, không cần phải đợi Đức Phật A-Di-Đà tiếp đón, mà tự do muốn vào các cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc lúc nào cũng được! Bởi vì khi đạt được “Nhất Tâm Bất Loạn’’ nơi Tự Tâm thì tương ưng với cõi Tịnh Độ hay Tây Phương  Cực Lạc nên dung thông vô ngại, cảnh Cực Lạc tức khắc hiện bày.

Tóm lại, chỗ rốt ráo của Pháp Môn Tịnh Độ là phải Niệm Phật nơi Phật Tâm với Tâm Niệm và phải đạt cho được “Nhất Tâm Bất Loạn” thì mới được Vãng Sanh Tịnh Độ hay Tây Phương  Cực Lạc. Điều này có vẽ hợp lý vì khi đạt được " Nhất Tâm " cùng tần số với các cõi Tịnh Độ nên dung thông vô ngại cảm ứng dễ dàng và "Bất Loạn" thì tất cả Nghiệp Chướng từ vô số kiếp bị trói chặt nằm im bất động. ‘‘Nhân’’ Luân Hồi không hoạt động thì ‘‘Quả’’ Nghiệp Báo không thể hiện hành, nên thoát được Luật Nhân Quả.Tuy nhiên, để đạt được Nhất Tâm Bất Loạn , không phải là việc dễ dàng ! Phải trải qua một quá trình tu chứng lâu dài, công phu miên mật. Mọi sinh hoạt kể cả đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng phải Nhất Tâm : tức là Tâm luôn ở một điểm không vướng chấp Sáu Trần hay Vọng Tưởng và Bất Loạn : tức là phải đạt tới Chánh Định. Còn Niệm Phật nơi “Phật Tướng” với Tướng Niệm, ỷ lại vào 10 niệm danh hiệu "suông" (cứ cho là 1 ngàn niệm hay 1 triệu niệm) chấp Tướng Phật A Di Đà bên ngoài để cầu xin, không tinh tấn tu hành tạo lập công đức nơi tự thân mà tin rằng sẽ được Vãng Sanh Cực Lạc thì điều này chỉ là ảo tưởng, rất khó thành đạt ! Thiền Tông có câu: "Cầu Phật thi công tảo vãng thành" (Ra công cầu Phật mấy thuở thành). Tịnh Độ cũng có câu : “Bất dĩ thiểu thiện căn phước nhân duyên đắc sanh Bỉ Quốc”. Nghĩa là không thể lấy phước báu ít, căn lành ít, nhân duyên ít mà có thể Vãng Sanh Tây Phương được .

Thật ra cõi Tây Phương  Cực Lạc của Phật A Di Đà, theo Kinh Điển Hán Tạng, có sông suối chim ca gió hú có 7 báu toàn là lưu ly bách ngọc mã não…vẫn chưa dứt hết Ngũ Uẩn, còn Tướng, còn Tâm chưa đạt tới chỗ Phi Tâm Phi Tướng, rốt ráo Niết Bàn !  Ngoài vô số các cõi Phật, còn có những cõi Tịnh Độ khác thấp hơn mà Tây Phương  Cực Lạc chỉ là một hay tương đồng với các cõi ấy. Chẳng hạn như theo Kinh điển Pali của Phật Giáo Nam Tông và theo các chú sở A-Tỳ-Đàm có tất cả 5 cõi Tịnh Độ, nằm trong 16 cõi Phạm Thiên hữu sắc, là chỗ tái sinh của các bậc Thanh Văn Bất Lai. Những cõi ấy chỉ toàn là các vị Bất Lai và La Hán. Năm cõi Tịnh Độ này vẫn là cõi hữu sắc, có những lâu đài, hoa viên rất nghiêm trang… là dấu vết tối thiểu còn sót lại của cõi ngũ uẩn. Cõi thấp nhất là Vô Phiền (Aviha) có thọ mạng 1000 đại kiếp, cõi Vô Nhiệt (Atappa) 2000 đại kiếp, cõi Thiện Hiện (Sudassa) 4000 đại kiếp, cõi Thiện Kiến (Sudassi) 8000 đại kiếp, và cõi Sắc Cứu Cánh (Akanittha) có thọ mạng 16000 đại kiếp. Năm cõi Tịnh Độ này dành cho các vị đã chứng quả Thánh như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán. Phật Giáo Nam Tông khác hẳn với Pháp Môn Tịnh Độ Bắc Tông, chứng được các Quả Vị Thánh này là do Thiền Định, không phải là do niệm Phật A-Di-Đà.

-Còn một cái Thể "A Di Đà "mà Tịnh Độ không thể vượt qua để đi thẳng đến Niết Bàn mà chỉ dừng chân ở cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc. Bởi vì mục đích của Tịnh Độ là được Vãng Sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc và nơi đây còn phải hành trình tiếp tục nhiều giai đoạn mới đến Niết Bàn ! Thể này không Niệm nơi Phật Tướng A Di Đà, không Niệm nơi Phật Tâm A Di Đà, vượt qua khỏi Tướng Niệm và Tâm Niệm. Thể "A Di Đà " này cũng gọi là "Bản Thể hay Bản Tánh Di Đà " với vô lượng nghĩa, vô lượng công năng công đức không thể nghĩ bàn, cũng chính là Tánh, Tự Tánh, cái Không hay "Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa "! Khi đó đâu đâu cũng là A Di Đà, cái Không, Bát Nhã hay Niết Bàn... Ngay cõi Ta Bà cũng là Tịnh Độ hay Cực Lạc, không cần phải đi xa cách cõi Ta Bà tới mười vạn ức cõi Phật mới tới cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà ! Bởi vì chính cái Vô Tướng A-Di-Đà mới là “Chân Phật” A-Di-Đà, khi đó "A-Di-Đà " là Vô Lượng Phật bình đẳng khắp mười phương. Và Tánh của Vô lượng Phật thì rỗng lặng trùm khắp vô biên bình đẳng với Tánh của vô lượng chúng sanh là Một, cũng là “Bản Tánh Di-Đà” nơi Tự Tâm của mỗi chúng sanh ! Thân mỗi chúng sanh với Bản Tánh Di-Đà nơi Tự Tâm chỉ là Một, nhưng Bản Tánh Di-Đà ‘‘Một’’ nơi mỗi chúng sanh lại hoà nhập vào Bản Tánh Di-Đà ‘‘Tất Cả’’ của tất cả chúng sanh và Vô Lượng Phật rộng lớn trùm khắp mười phương : “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Thân chúng sanh chỉ là ‘‘bào ảnh’’ trong mê hiện ra trong Ánh Hào Quang Phật Bảo A-Di-Đà hay Lưới Đế Châu trùm khắp vô biên với Đạo Tràng thanh tịnh mà chúng sanh phải nương tựa qui y để thoát khỏi luân hồi rời bỏ thân “bào ảnh” giả tạm ! Do đó, công phu bằng trí tuệ qui về Bản Tánh Di-Đà nơi Tự Tâm cũng là qui về nương tựa và sống với Ánh Hào Quang Phật Bảo A-Di-Đà. Bản Tánh Di-Đà có hai mặt Thể và Dụng tương giao: Thể là mặt Vô Tướng hay Bản Thể, còn Dụng là mặt Tướng hay Hiện Tượng. Trong Thể có Dụng, trong Dụng có Thể, Thể và Dụng là Một. Cũng như “Thân Tứ Đại” của chúng sanh là Dụng có Tướng chỉ là “bào ảnh” không thật nhưng lại có “Phật Tánh” hay Bản Tánh Di-Đà ở bên trong là Thể là cái Vô Tướng. Phật Tánh, Tánh hay Bản Tánh Di-Đà là Thể lại sinh ra vô lượng Pháp Giới trong đó có Thân Tứ Đại của chúng sanh là Dụng. Do đó, Thể và Dụng tương giao và rốt ráo là Một: “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Trong câu Niệm Phật A-Di-Đà: Niệm chỉ là Dụng (Hữu Tướng), Vô Niệm là Thể (Vô Tướng); Niệm và Vô Niệm tương giao, trong Niệm có Vô Niệm trong Vô Niệm có Niệm, Niệm và Vô Niệm là Một. Do đó, không thể chấp Niệm mà bỏ Vô Niệm, mà phải buông Niệm mới đạt tới Vô Niệm. Cũng vậy, Phật là Phật Tướng là Dụng (Hữu Tướng), Phi Phật là Thể (Vô Tướng), Phật và Phi Phật tương giao, trong Phật có Phi Phật, trong Phi Phật có Phật, Phật và Phi Phật là Một, không thể chấp Phật mà bỏ Phi Phật, mà phải buông Phật để đạt tới Phi Phật. Do đó, Niệm Phật A-Di-Đà đúng nghĩa và rốt ráo tới chỗ Vô Vi là Niệm Bản Tánh Di-Đà, Niệm Phật Tánh hay là Niệm Tánh nơi Tự Tâm, không phải là Niệm Tướng Phật A-Di-Đà ! Khi Bản Tánh Di-Đà, Phật Tánh hay là Tánh khởi Niệm thì cũng chính là “Vô Niệm”. Vì Bản Tánh Di-Đà, Phật Tánh hay là Tánh là "Tánh Không" với “Tướng Không” không “Tướng” nên “Vô” và cái “Vô” này “Niệm” tức là đạt tới “Vô Niệm” là hiển bày cái “Vô Tướng” là Bản Tánh Di-Đà, Phật Tánh hay là Tánh. Khi đó, Sáu Căn thì hoàn toàn thanh tịnh không khởi Niệm và đã chuyển hóa hoà nhập trong Tánh thành Sáu Ban Thần Dụng, Thức chuyển thành Trí. Nếu Sáu Căn còn khởi Niệm tức là còn trụ nơi Thân Tướng tuy diệt được Tướng Trần Lao bên ngoài nhưng Nghiệp Lực trong Thức A-Lai-Da vẫn còn chi phối. Niệm nơi Sáu Căn là Tướng Niệm, Niệm Tướng thì chỉ được Tướng: còn Thân nên còn Nghiệp. Ngay nơi Sáu Căn mà lìa Sáu Căn, ngay nơi Tướng mà lìa Tướng, ngay nơi Niệm mà lìa Niệm để đi sâu vào Tâm Niệm vì Tướng do Tâm mà ra chỉ là Giả Tướng không thật. Do đó, lìa Tướng chuyển hoá về Gốc sinh ra Tướng là Tâm. Tâm cũng có con đường từ Ngọn về Gốc cho tới chỗ rốt ráo đạt đến Vô Vi là Vô Tâm. Khi đó, Tâm là ‘‘Tâm Vô’’ và Tâm Niệm chính là ‘‘Vô Niệm’’, tức thì Bản Tánh Di-Đà, Phật Tánh hay là Tánh hiển bày là Phật nơi Tự Tâm ! Phật ở đây là Bản Tánh Di-Đà,  Phật Tánh hay là Tánh cũng chính là Phi Phật hay là Phật mà Phi Phật, Phi Tâm, Phi Tướng, Phi Phi Tướng tức là ‘‘Chân Phật’’A-Di-Đà bình đẳng với Vô Lượng Phật khắp mười phương ! Bản Tánh Di-Đà, Phật Tánh hay là Tánh là Một, Phật và Phi Phật là Một đồng với cái Không rốt ráo là‘‘chỗ ngồi’’của tất cả Chư Phật hay là ‘‘Căn Nhà Xưa’’ của tất cả chúng sanh là Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa !
3-Niệm Phật nơi “Phi Tâm Phi Phật”:
"Vô Niệm Vô Tướng".

Niệm Phật nơi Phi Tâm Phi Phật với Vô Niệm Vô Tướng, là lảnh vực của Thiền Tông không phải Tịnh Độ. Nói là Niệm Phật nơi Phi Tâm Phi Phật, nhưng thật ra không có Niệm Phật. Không có Niệm Phật A Di Đà, không có Niệm Phật Thích Ca, dù là trên Tướng Niệm hay Tâm Niệm. Do dó cũng không có Niệm Phật cho tới Nhất Tâm Bất Loạn, vì Nhất Tâm tuy Bất Loạn thì vẫn còn là Tâm, còn ở nơi "đầu sào trăm trượng", chưa đạt tới Phi Tâm hay Vô Tâm ! Sáu Căn không niệm nhưng Tự Tánh Chân Như niệm, ngay khi đó thấy Tánh thành Phật ! Tánh này thì rỗng lặng trong suốt vô tướng vô biên trùm khắp Pháp Giới, có nhiều tên gọi, cũng gọi là "Bản Thể hay Bản Tánh  Di Đà " với vô lượng nghĩa thâm áo !  "A Di Đà " với bản nghĩa thâm áo này là nơi “Phi Tâm Phi Phật" không có Tướng Phật A Di Đà không có Tướng  Phật Thích Ca cũng như không có Tướng Phật của Vô Lượng Phật mà là một Bản Thể thanh tịnh trùm khắp vô biên không có một vật dung thông với Thể Tánh rỗng lặng của Vô Lượng Phật trong đó Phật A Di Đà chỉ là một ! Niệm Phật "A Di Đà " nơi đây là Tự Tánh Di Đà niệm, không phải là Sáu Căn niệm, tức là "Vô Niệm". Thiền Tông  không có Niệm Phật (trên Tướng Niệm cũng như Tâm Niệm) nhưng chính là Niệm Phật chỗ rốt ráo, niệm nơi "Chân Phật" là Phi Tâm Phi Phật. Không Niệm Phật theo cách của Tịnh Độ, mà Niệm  trên Thể Tánh Không Phi Tướng Phi Tâm, nơi ấy không còn Tướng Phật cho Tướng Niệm, không còn Tâm Phật cho Tâm Niệm, mà chỉ toàn là Thể Tánh Không rỗng lặng trùm khắp cho "Vô Niệm" . "A Di Đà " nơi đây không còn là Phật Tướng A Di Đà mà là cái Thể rỗng lặng "Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ”. Vô Lượng Quang là Ánh Sáng Bát Nhã với Trí Tuệ vô lượng cũng chính là Chân Tâm. Tâm này Gốc ngay cửa Vô Vi, Tâm mà Phi Tâm. Vô Lượng Thọ là cái không sanh diệt cũng chính là Tánh, Tự Tánh, cái Không, Bát Nhã hay Niết Bàn… Vậy "A-Di-Đà" cũng chính là Tâm Tánh, Phật Tánh hay Tự Tánh  dung thông với tất cả Tánh và trùm khắp. Tự Tánh Di Đà là Chân Tánh bình đẳng sẵn có ở trong thân tất cả chúng sanh, ở ngoài thân và trùm khắp Hư Không vô biên, là cái siêu việt nhất, cái rốt ráo nhất của vũ trụ càn khôn cũng chính là cái “Không” vi diệu. Tự Tánh Di Đà là Viên Ngọc Ma Ni dụ cho Tánh hay Tự Tánh, Bát Nhã Chân Như hay Niết Bàn, là cái “Vô Lượng Thọ” chiếu ra cái Ánh Sáng Vô Lượng của Viên Ngọc là Ánh Sáng Bát Nhã, là cái Ánh Rõ, hay cái cửa Vô Vi, là Chân Tâm hay Tâm Gốc là cái “Vô Lượng Quang”. Như vậy Tự Tánh Di Đà là cái Vô Lượng Quang  Vô Lượng Thọ: Chân Tâm và Gốc Tánh. Cái Ánh Sáng Vô Lượng hay Ánh Sáng Bát Nhã, Ánh Sáng Trí Tuệ Vô Lượng là Chân Tâm. Cái bất sanh bất diệt Vô Lượng Thọ, hay Chân Như Bát Nhã Niết Bàn là Gốc Tánh. Cái mà Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”!

“Cõi Ta Bà có tòa Cực Lạc,
  Dòng sông Mê, Biển Giác chẳng xa
  Y theo giáo pháp Thích Ca
  Tự nhiên Bản Tánh Di Đà phóng quang”.

Bản Tánh Di Đà cũng chính là Pháp Thân của tất cả chúng sinh trùm khắp cả Đông Tây Nam Bắc nơi nào cũng có chiếu sáng khắp mười phương, là vầng trăng ngự giữa trời cao rộng, là Tánh và chiếu sáng trùm khắp bằng cái ánh sáng vi diệu của nó tức là Tâm. Như một vầng trăng hiện trên mặt nước sông hồ thành ra vô số trăng: “Một là Tất Cả”, Tánh Phật thể nhập trong tất cả chúng sinh bình đẳng và trùm khắp. Cũng vậy, Tánh Phật trùm khắp hiển hiện trong mỗi một chúng sanh “Tất Cả là Một”. Từ cái “Sáng Rõ” của Tâm (Cái Riêng Sáng Hiện Bày Rõ Ràng) mà nhận ra Tánh và Tánh này chính là Bản Tánh Di Đà, không cần phải đi đâu xa vì nó hiện diện trong mọi chúng sinh và trùm khắp mười phương.

“Tâm nội Di Đà tử mạc khu
  Đông Tây Nam Bắc, Pháp Thân chu
  Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt
  Sát hải trừng trừng dạ mạn thu”.
(Bài kệ “Thị tu Tây phương Nghiệp”của Tuệ Trung Thượng Sĩ)

(Di Đà vốn thật Pháp Thân ta
Nam Bắc Đông Tây khắp chói lòa
Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
Đêm lắng trùng dương rạng chiếu xa).

Tự Tánh hay Tự Tánh Di Đà là ở nơi Tự Tâm đạt đến Vô Vi tức là tận đầu nguồn Tâm và huốt khỏi Tâm: Tâm mà Phi Tâm. Khi đó Niệm Phật là Tự Tánh Di Đà Niệm Phật, còn sáu căn thì không khởi một niệm, nghĩa là Chân Như Tự Tánh Niệm Phật, Phật Tánh hiện bày thấy được Tự Tánh. Lúc đó thì  “Vô-Niệm” là Niệm, “Vô-Thiền” là Thiền: không chấp vào tướng Ngồi Thiền hay tướng Niệm Phật. Niệm Phật không “âm thanh”, không “sắc tướng”, không “cầu xin”, không chấp tướng Phật A-Di-Đà, không chấp tướng Phật Thích-Ca, dù đi đứng nằm ngồi hay đang làm việc ở trong “Động” mà “Bất Động” dù thân và cảnh đang ở nơi “Tướng” mà “Vô Tướng”; khi đó Phật là Thực Tướng Vô Tướng rốt ráo và “Niệm Phật” chính là  “Vô Niệm”! Trong cái “Vô Niệm” mà “Niệm” sâu thẫm này tất cả sum la vạn tượng, sơn hà đại địa đều đồng loạt Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng. Nhưng Niệm Phật mà Phi Phật, Niệm Pháp mà Phi Pháp, Niệm Tăng mà Phi Tăng. .…là Bát Nhã Chân Như đang niệm, sum la vạn tượng đồng loạt mở toang con mắt Bát Nhã trùm khắp Hư Không: “Đại Địa quần sanh nhãn hoát khai”, đâu đâu cũng là Bát Nhã, Niết Bàn hay Cực Lạc… Tất cả đều bất nhị, bình đẳng trong vô tướng, tịch diệt vô thân trong Vô Ngã, dung thông trong Chơn Nhất mà chưa từng rời một Niệm và ngôi Tam Bảo là cái Không rốt ráo đồng với Hư Không rỗng suốt trùm khắp vô biên! Như vậy, cái rốt ráo sâu thẫm của Niệm Phật là Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng là Tự Tánh Chân Như hay Tự Tánh A-Di-Đà khởi niệm, còn Sáu Căn thì không khởi một niệm. Tự Tánh Di Đà này ở trong thân, ở ngoài thân, là cái Không ở ngay trước mặt  rỗng suốt, trống  lặng, phi vật phi Phật phi phàm, bình đẳng, không sinh diệt, dung thông vô ngại và trùm khắp Hoa Tạng Pháp Giới….

Đi sâu vào ý nghĩa thâm áo A Di Đà không chấp trụ nơi Phật Tướng A Di Đà vì thật ra Phật Tướng A Di Đà chỉ là Giả Tướng hay chỉ là cái Bóng Phật A Di Đà không phải Phật A Di Đà thật . Vô Tướng A Di Đà nơi Tự Tâm mới là Chân Phật A Di Đà vì Tâm Phật và Tâm chúng sanh là Một bình đẳng với Vô Lượng Phật cùng hoà nhập trong Thể Tánh rỗng lặng dung thông và trùm khắp. Khi đó, đâu đâu cũng là Phật A Di Đà. Với ý nghĩa này, thì khi dùng hai chữ “Mô Phật”, “A Di Đà Phật” hoặc Lục Tự Di Đà “Nam Mô A Di Đà Phật đều có ý nghĩa thâm áo và vô phân biệt cho cả Tịnh Độ lẫn Thiền Tông. Một là Tất Cả, Tất Cả là Một. Phật A Di Đà tuy là ‘‘Một’’ nhưng hoà nhập vào cái Thể Tánh Không rỗng lặng trùm khắp vô biên trở thành Phật A Di Đà ‘‘Tất Cả’’, khi đó đâu đâu cũng là Phật A Di Đà dung thông với Vô Lượng Phật khắp mười phương. Thiền Tông không dùng Niệm Phật theo Tướng Niệm hay Tâm Niệm làm một Pháp Môn để hành trì, nhưng khi giao tế hay ứng xử với Pháp Trần thì có thể dùng mà không chướng ngại và vô phân biệt. Bởi vì A Di Đà nơi đây là cái Không rỗng lặng và trùm khắp ở ngay trước mặt với Vô Lượng Phật trong đó có Phật A Di Đà. Còn hai chữ “Mô Phật” thì thật là đặc sắc với nhiều ý nghĩa thâm áo. Mô Phật biểu hiện lòng từ bi vô biên thương xót muốn độ tất cả chúng sanh. Mô Phật để nhẫn nhục trước tất cả những phiền não hay nghịch cảnh trong pháp thế gian. Mô Phật để dứt bỏ tướng trần lao ô nhiễm không dính chấp. Mô Phật để quyết sống như Phật, quyết đi theo Con Đường của Phật...Hai chữ Mô Phật còn ám chỉ Vô Lượng Phật bình đẳng khắp mười phương cũng là cái Không vi diệu ngay trước mắt và trùm khắp và khi đó đâu đâu cũng là Phật!  “A Di Đà ” ngoài Phật A Di Đà còn có ý nghĩa sâu rộng hơn chính là cái “Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ” là cái Tự Tánh Di Đà của chính mình bắt đầu từ đầu nguồn Tự Tâm, ngộ nhập Bản Tánh Di Đà  trùm khắp là cái Hư Không vô ngại hay Chân Không vi diệu ở trước mắt. Niệm cả câu: “Nam Mô A Di Đà Phật” là qui về nương tựa Phật A Di Đà hoặc đi xa hơn là chỉ sống với cái Bản Tánh Di Đà này là cái Không vô sở trụ rốt ráo và trùm khắp (Qui Không), để hòa nhập với cái Không vi diệu !
Tóm lại, trong cách sinh hoạt giao tế xưng tụng hay ứng xử với tướng trần lao hàng ngày, dùng niệm : Mô Phật, A Di Đà Phật, Lục Tự Di Đà ‘‘Nam Mô A Di Đà Phật’’ hay ngay cả niệm Phật Thích Ca: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật... đều có lợi ích. Cái lợi ích sơ đẳng, thực tế và cũng rất quan trọng tránh được sự quấy nhiễu của trần lao là tập “Nhẫn”, tập “Nhịn” để đối trị với trần lao diệt tham sân si ngã chấp và đi xa hơn là “Hưu” (ngưng) và cuối cùng là “Mặc” thân tâm được an định.

“Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận 
  Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu 
  Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc
  Hưu hưu hưu, cái thể công danh bất tự do”.

(Thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm (hay ý) nhẫn thì những điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết. 
Thân nhịn, miệng nhịn, tâm nhịn thì ngàn tai muôn họa đều tiêu tan.
Thân nín, miệng nín, tâm nín thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.
Thân ngưng, miệng ngưng, tâm ngưng thì danh đời dù lớn lao nhất trên thế gian cũng không làm gì được ta).
Từ hai chữ “Mô Phật” đơn giản đến bốn chữ “A-Di-Đà-Phật” rồi lục tự Di-Đà: “Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật” với bản nghĩa qui về nương tựa vào Bản Tánh Di Đà nơi Tự Tâm có công năng diệt trừ phiền não tham sân si ngã chấp. Niệm Phật để Nhẫn, tránh những điều trái chủ oan gia. Niệm Phật để Nhịn, tránh ngàn tai muôn họa đến với chính mình. Niệm Phật để Ngưng, tức là ly Pháp Trần, danh đời dù lớn lao nhất trên thế gian cũng không làm gì được ta. Niệm Phật để Tịnh, ThânTâm được thanh tịnh! Tuy nhiên, một câu Niệm Phật  trên “Tướng Niệm”chỉ đáp ứng tức thời trên Tướng: đối trị trực tiếp Tướng Trần Lao, ngăn chận sự nhiễu loạn của Trần Lao ngay lúc ấy. Một câu Niệm Phật trên “Tâm Niệm”  thì trừ được nhiều phiền não lậu hoặc nơi Tâm. Càng rời “Tướng Niệm” đi sâu vào “Tâm Niệm”, vượt qua khỏi Tâm Niệm,  tới cửa Vô Vi đạt đến Vô Tâm Vô Niệm thì Đại Tâm Đại Ứng, là cái Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ, là Viên Ngọc Ma Ni chơn Tâm gốc Tánh, là cái Không rốt ráo :  Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Thật ra, Phật Tướng A-Di-Đà bên ngoài chỉ là ‘‘Giả Tướng A-Di-Đà"  là Phật Giả chỉ là cái Bóng Trăng . Bản Thể hay Bản Tánh A-Di-Đà nơi Tự Tâm mới là ‘‘Thật Tướng  A-Di-Đà’’ là Phật Thật hay là Mặt Trăng thật. Vì chúng sanh thường tình chưa đạt tới cái Tâm “Ba La Mật Đa” để có thể nhận ra ngay cái Bóng Trăng là Mặt Trăng thật hay ngay trên cái Bóng Phật A Di Đà là Phật A Di Đà thật. Cho nên Bóng Trăng vẫn là Bóng Trăng không phải Mặt Trăng thật, Phật Tướng A Di Đà vẫn là cái Bóng Phật A Di Đà hay là Phật Giả không phải là Chân Phật A Di Đà. Chấp Tướng  mà bỏ Thể thì cũng giống như nhìn Bóng Trăng mà tưởng là Mặt Trăng thật; nhìn cái Bóng của Phật A Di Đà mà tưởng rằng Phật A Di Đà thật để rồi Cúng Lạy và Niệm trên cái Bóng của Phật cầu Vãng Sanh Cực Lạc thì dễ đi đến chỗ mê lầm, không thể khẳng định 100% là được Vãng Sanh! Do đó phải quay về nơi Phật thật để Niệm, phải quay về nơi Tự Tâm, bởi vì tức Tâm tức Phật, Phật ở nơi Tâm không phải ở bên ngoài.  Niệm Phật cần phải đi xa hơn không chấp trụ trên "Tướng Niệm" để đạt đến "Tâm Niệm": Nhất Tâm Bất Loạn thì Cõi Tịnh Độ hiện tiền. Còn nếu vượt khỏi Tướng Niệm và Tâm Niệm, tức là Niệm Phật nơi Phi Tâm Phi Phật đạt đến Vô Vi với Vô Niệm Vô Tướng, thì xem như đã bước sang lảnh vực của Thiền Tông. Khi đó, bằng Thiền Định không còn Niệm Phật bằng âm thanh sắc tướng của Sáu Căn, nghĩa là Sáu Căn không Niệm mà Tự Tánh Di Đà nơi Tự Tâm khởi Niệm thấy được Tự Tánh. Dù là đi đứng nằm ngồi làm việc giã gạo gánh nước bửa củi ăn cơm hay ngồi Thiền...luôn ở trong Định, không Niệm mà là Niệm, không Niệm bằng âm thanh sắc tướng nhưng lại là Niệm tới chỗ cao tột là Chân Như Tự Tánh khởi Niệm, là Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng, đạt tới cái Không Vô Vi !
Như vậy, Niệm Phật có thể chia làm 3 lớp cửa. Niệm Phật nơi Tướng Niệm với Phật Tướng chỉ mới là lớp cửa thứ nhất có công năng diệt trừ tướng trần lao ở bên ngoài. Niệm Phật nơi Tâm Niệm với Phật Tâm là lớp cửa thứ hai diệt trừ lậu hoặc nơi Tâm đạt Nhất Tâm Bất Loạn thì cảm ứng dung thông với các cõi Tịnh Độ. Niệm Phật nơi Phi Tâm Phi Phật với Vô Niệm Vô Tướng là lớp cửa thứ ba, chỗ rốt ráo đạt cứu cánh Niết Bàn, chính là Vô Niệm của Thiền Tông. Tức là không có Niệm Phật A Di Đà, không có Niệm Phật Thích Ca... mà là Chân Như Tự Tánh khởi niệm nơi đầu nguồn Tâm : "Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật". Thiền Tông thì đi tắt, vượt khỏi Tướng Niệm và Tâm Niệm, trực chỉ bằng Vô Niệm ngộ nhập "Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa". Tịnh Độ thì đi chậm vì phải leo lên từng bậc thang, từ Tướng Niệm, vượt qua Tướng Niệm đến Tâm Niệm và chỉ khi đạt được "Nhất Tâm Bất Loạn" thì mới cảm ứng cõi Tịnh Độ và còn phải tiếp tục một đoạn đường dài nơi Tịnh Độ mới tới được cứu cánh Niết Bàn hay Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Con đường Thiền Tông đang đi là con đường của ba đời Chư Phật "hành thâm" Pháp "Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa" bằng Thiền Định ! Nói tới ba đời Chư Phật: nếu cho rằng thời quá khứ khi Phật Thích Ca ra đời là Chánh Pháp, hiện tại và tương lai đều là Mạt Pháp; tuy nhiên Phật thuyết cả ba đời Chư Phật quá khứ hiện tại và vị lai "hành thâm" Pháp Bát Nhã  đều đắc  A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Đề ngộ nhập Niết Bàn. Cả đến Bồ Đề Tát Đoả tức là hàng phàm phu tầm thường, nếu y theo Pháp Bát Nhã đều cũng đạt được cứu cánh Niết Bàn. Pháp Bát Nhã là Đại Thần Chú, Vô Đẳng Đẳng Chú linh ứng của Phật là cốt tủy của Thiền Tông. Do đó  không thể cho rằng Thiền Tông thì không có ai chứng Đạo dù rằng hiện tại và cả đến tương lai đều là thời Mạt Pháp! Tịnh Độ và ngay cả Mật Tông cuối cùng cũng phải theo Pháp Bát Nhã này mới đạt được cứu cánh Niết Bàn. Thiền Tông chọn đúng ngay Gốc, ngay Con Đường "Đại Lộ" ngắn nhất để "Lên Đường". Con Đường mà cả ba đời Chư Phật đều chọn lựa. Thiền Tông đang đi trên Con Đường của Chư Phật đã đi, đang đi và sẽ đi. Không có Mạt Pháp đối với Pháp Bát Nhã Ba La Mật thì cũng không có Mạt Pháp đối với Thiền Tông. Vì Thiền Tông đang đi trên Con Đường "Bát Nhã Ba La Mật" của ba đời Chư Phật quá khứ hiện tại và vị lai ! Do đó, không có thể nói thời Mạt Pháp tu Thiền thì rất ít hoặc sẽ không có người chứng Đạo ! Thật ra, dù có chứng Đạo thì người thực sự chứng Đạo cũng rất ít khi lộ diện, vì họ không tham danh lợi ồn ào của thế gian, tùy duyên cơ hay thời thế mà xuất xử. Tu Thiền Trí Huệ sáng suốt tự biết con đường tu của mình đã đi tới đâu. Khi ở gần với cái Trong cái Sáng hay cái Riêng Sáng Rõ Ràng thanh tịnh thì tự biết mình đã đi đúng đường. Hoặc khi ngộ nhập hẳn vào Không, luôn sống với cái Không (như Cư Sĩ Bàng Long Uẩn diển tả trong bài thơ Không) thì xem như đã đi tới đích tùy duyên cơ mà độ chúng sanh, sống tự tại hay trả lại thân tứ đại cho thế gian. Lục Tổ Huệ Năng tuy đã chứng Đạo nhưng vẫn ẩn nơi nhóm thợ săn trong rừng suốt 15 năm mới ra độ chúng sanh. Nhiều vị thấy chúng sanh mê muội nặng nề, khó giáo hóa thì mai danh ẩn tích không ai biết đến, hoặc thị tịch nhập Niết Bàn… Đối với Thiền Tông, vì muốn đi tắt đi nhanh trong một kiếp hoặc một số kiếp không dài lắm, cho nên có nhiều khó khăn chướng ngại, nhất là chỉ dựa vào tự lực và trí tuệ nhiều hơn là tha lực bên ngoài. Tuy nhiên, đã có Phật, có Tổ đi trước chỉ đường, cái Chủng Tử Phật Tánh sẵn có, "Tấm Bản Đồ Bát Nhã" ở trong tay, cái “Bí Quyết” vào cửa “Không” của Phật, Tổ và Thiền Sư còn giữ lại trong A-Lại-Da-Thức, nếu đời nay chưa chứng, đường đi chưa tới đích, thì vẫn tiếp tục phần còn lại hay cái quãng đường còn lại ở đời sau. Thí dụ, từ cõi Ta Bà đến Niết Bàn dài 100 thước, đời nay đã phát "Tâm Bồ Đề" nguyện đi tới đích, đã "Lên Đường" nhưng chỉ đi được 70 thước. Đời sau hoặc những đời kế tiếp, sẵn "Con Đường Cũ" đã đi, "Tấm Bản Đồ Bát Nhã" sẵn có và "Tâm Bồ Đề" đã phát nguyện còn ghi dấu rõ nét trong A-Lại-Da-Thức  không bao giờ mất là Nhân, thì Quả là cơ duyên đến rất thuận lợi và"Con Đường Cũ" tự nhiên hiện ra, tiếp tục đi thêm 30 thước nửa là tới đích !

 

 

 

 

 

* Tấm Bản Đồ "Bát Nhã" của Đức Phật Thích Ca:
"Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh".

Thật ra tất cả những Tấm Bản Đồ từ "Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật" của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, "Vô Niệm" của Lục Tổ Huệ Năng, "Vô Môn Quan" của Thiền Sư Huệ Khai, "Vô" của Triệu Châu, "Vô Tâm" của Hoàng Bá hay "Vô Vi" của Thiền Sư Huyền Giác... đều nằm trọn vẹn trong Tấm Bản Đồ "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh" của Đức Phật Thích Ca. Nó là con đường ngắn nhất và rốt ráo trực chỉ về cái Không vi diệu chỉ thẳng Bát Nhã ngộ nhập Niết Bàn. Nó trừ được tất cả các khổ ách cũng như vô số Nghiệp Chướng Vô Minh tích lũy hằng sa kiếp để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Trong kinh Người Bắt Rắn, Đức Phật có nói đến một người bắt rắn giỏi không bao giờ nắm đuôi hay mình rắn vì nó có thể quay đầu lại cắn người, mà phải nắm ngay "đầu rắn" là xong việc...Bài Kinh Bát Nhã chính là cái "đầu rắn" hay là cái đầu mối rốt ráo để đạt Đạo Giải Thoát. Bài Kinh không những là cốt tủy của Thiền Tông nói về cái Không hay Bát Nhã vi diệu để ngộ nhập mà cũng rất quan trọng cho tất cả các Pháp Môn khác... Với bài kinh Bát Nhã, Đức Phật đã trao Tấm Bản Đồ chỉ con đường Giải Thoát rõ ràng, Ngài cố tình để lộ nhiều mật nghĩa mà Tổ và các Thiền Sư đã nhận ra nương theo và đã Chứng Đạo!  Trong Tâm Kinh Tụng (Thiếu Thất Lục Môn), Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đồ lại Tấm Bản Đồ "Bát Nhã" của Phật với những đường nét rõ ràng, luận Pháp Bát Nhã thành Thế Kiếm tuyệt vời : "Trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật". Với Đường Kiếm "Trực Chỉ" bí truyền này, Kiếm Khách Giang Hồ nơi nơi có thể thao luyện đạt  "Kim Cang Tuệ Kiếm" chém đứt mọi Phiền Não Vô Minh  tự cứu được mình và cứu chúng sanh thoát khỏi Luân Hồi, đạt Bờ Giải Thoát.

“Đại Trượng Phu bỉnh Tuệ Kiếm
  Bát Nhã phong hề Kim Cang diệm.
  Phi đản năng thôi, ngoại đạo Tâm
  Tảo tằng lạc khước Thiên Ma đảm”

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.

Ngay tựa Kinh, Đức Phật đã chỉ thẳng Bát Nhã, khai thị tức thời, chỉ thẳng cho người trí nhận ra ngay cái phương trình bí ẩn của con đường Giải Thoát. Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma là người phát hiện và giải trình một cách xuất sắc: "Giáo Ngoại Biệt Truyền Bất Lập Văn Tự, Trực Chỉ Nhân Tâm Kiến Tánh Thành Phật". Phương trình có 2 ẩn số: ẩn số thứ nhất "Trực chỉ nhân Tâm" là cái "Tâm Ba La Mật Đa" ở tận đầu nguồn đạt tới "Bờ Bên Kia"; ẩn số thứ hai là ngay đó "Kiến Tánh thành Phật" tức là ngộ nhập Ma Ha Bát Nhã và Ma Ha Bát Nhã chính là Tánh. Phương Trình Giải Thoát là con đường Tâm ở huốt tận đầu nguồn tới cửa Vô Vi đạt đến Tâm "Phi Tâm" hay Tâm "Vô Tâm" để thấy Tánh. Và Tánh là cái Tâm "Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa" đã biến thể thành Phi Tâm hoà thành Biển Lớn "Ma Ha Bát Nhã". Tâm Kinh Tụng (Thiếu Thất Lục Môn), Tổ Đạt Ma có 37 bài kệ. Ở đây chỉ nói đến 28 Bài Kệ chính của Tổ diển giải Bát Nhã Tâm Kinh. Tổ nói kệ :

                                   “Bát Nhã (Trí Tuệ) thanh tịnh hải
   Lý mật nghĩa u thâm
   Ba La Đáo Bỉ Ngạn
   Hướng Đạo kỳ do Tâm”.
Lật ngược bài kệ này lại, lộ trình con đường Giải Thoát tức thì hiện ra:
                     "Hướng Đạo kỳ do Tâm”.
                       Ba La Đáo Bỉ Ngạn
                       Lý mật nghĩa u thâm
                       Bát Nhã (Trí Tuệ) thanh tịnh hải"

Bắt đầu con đường tìm Đạo Giải Thoát, Tổ Đạt Ma lấy Tâm làm Tông Chỉ, làm con đường để đi : “Hướng Đạo kỳ do Tâm”, và đi huốt đường Tâm đến tận gốc là “Ba La Đáo Bỉ Ngạn” (tới bờ bên kia) ngộ nhập cái “Bát Nhã (Trí Tuệ) thanh tịnh hải”, tức thì thấy TÁNH thành PHẬT. Điều này cũng giống như đi huốt đường Tâm vượt khỏi "Đầu sào trăm trượng" của Thiền Sư Cảnh Sầm, cửa "Vô Vi" của Thiền Sư Huyền Giác, cửa "Vô Niệm" của Lục Tổ Huệ Năng,  cửa "Vô Tâm" của Thiền Sư Hoàng Bá...tới Bờ Bên Kia là Ba La Đáo Bỉ Ngạn. Nơi đây, hoà cùng Biển Lớn thanh tịnh, thấy Tánh thành Phật. Tổ Đạt Ma đã vẽ ra một lộ trình ngắn gọn trên con đường Giải Thoát: "Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật" đồng điệu với con đường của Phật Thích Ca trong Bát Nhã Tâm Kinh: " Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa" Tâm .
Nếu đem Tấm Bản Đồ "Bát Nhã" này của Đức Phật Thích Ca chồng lên Tấm Bản Đồ "Chiêm Bao" để so sánh và phân tích như là một sự "Kiểm Chứng" để hình dung ra phần nào sự "Giác Ngộ" bằng "Thực Chứng", thì rõ ràng hai Tấm Bản Đồ vừa khít và ăn khớp với nhau từng nét một ! Phải chăng đây là một điều "Bí Mật" mà Phật, Tổ và Thiền Sư còn úp mở không muốn nói trắng ra vì sợ chúng sanh còn mang nặng tham dục ngũ trược cố chấp sinh nhân ngã, chỉ mới thoáng hiểu một ít Lý chưa đạt Sự mà vội đi buôn Phật bán Tổ thì thật là tai hại ?! Chỉ có những Kiếm Khách Giang Hồ thứ thiệt, thực Tâm cầu Đạo, không chấp dính Pháp Trần, không nhân ngã, "không cùng muôn Pháp làm bạn" chỉ làm bạn với cái Không hay cái Hư Không rỗng rang không có một vật, không tài sản, chỉ có duy nhất một lưỡi kiếm "Vô" sắc bén "độc hành độc bộ"  ngày đêm thao luyện "Bát Nhã Kiếm" của Phật đạt đỉnh cao "Kim Cang Tuệ Kiếm" thì mới khai phá được những điều Bí Mật này! "Trực Chỉ Nhân Tâm" hay "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa" Tâm có thể so sánh với cái Thân Thật khi thức dậy sau giấc Chiêm Bao. Chính cái Thân Thật này tuơng ứng với Bát Nhã vi diệu sinh ra Hoa Tạng Pháp Giới trong Chiêm Bao với đủ các loài chúng sanh. Trong Chiêm Bao, cái Thân Thật chỉ là Hư Không rỗng lặng. " Trực chỉ nhân Tâm " là hướng về chỗ rốt ráo hay cái cửa Vô Vi nơi cái Hư Không vi diệu này hay cái " Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa" Tâm vượt qua cửa Vô Vi hay cửa Không thấy Tánh thành Phật, tức là thức dậy ngộ nhập vào cái Thân Thật là Thật Tướng, là Pháp Thân, Bát Nhã hay Niết Bàn... Khi đó, tức thì thế giới Chiêm Bao, cõi Mê hay Lục Đạo Luân Hồi biến mất không còn ! Khi đó tất cả Pháp trong Chiêm Bao đều là Vô Pháp,  vì khi Thức Dậy đồng nghĩa với Giác Ngộ thì tất cả Pháp trong Chiêm Bao đều mất. Tuy nhiên Vô Pháp cũng là Pháp, bởi vì khi còn ở trong thế giới Chiêm Bao thì tất cả đều là Pháp đều là cái Bóng Trăng hay cáiTâm Mê đang niệm sinh ra hình tướng Thế Giới Pháp. Do đó phải biết nương theo Pháp nhưng không chấp Pháp nghĩa là ngay nơi Pháp mà lìa Pháp để nhận ra cái Thật Pháp là Bát Nhã Pháp, nương theo Bóng Trăng nhưng ngay nơi Bóng Trăng mà lìa Bóng Trăng để nhận ra Mặt Trăng Thật, ngay nơi Niệm mà lìa Niệm để đạt tới Vô Niệm Vô Tâm...Tất cả đều "Vô", phải dùng lưỡi kiếm "Vô" sắc bén trong Bát Nhã Pháp chém đứt mọi PhápTướng để đạt tới cái Vô Tướng là Không là Thực Tướng Bát Nhã. Khi đó, tất cả đều  là Vô Pháp, Vô Tướng, Vô Niệm, Vô Tâm...là cái Tướng Không hay Tánh Không rỗng lặng của Niết Bàn, là  Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa !

“Pháp bổn Pháp vô Pháp
  Vô Pháp Pháp diệc Pháp
  Kim phó vô Pháp thời
  Pháp Pháp hà tằng Pháp”. 
(Pháp, gốc Pháp không phải Pháp 
  Pháp không Pháp cũng là Pháp
  Nay khi trao cái không Pháp
  Mọi Pháp đâu từng là Pháp).  (ĐứcThích Ca Mâu Ni)

Ở Pháp Hội Linh Sơn khi Đức Phật Thích Ca giơ Cành Hoa Sen lên : "Niêm Hoa Vi Tiếu", Tổ Ca Diếp tức thì Ngộ Đạo nhận ra Bát Nhã và mỉm cười. Đức Phật dùng  Pháp Tướng là Cành Hoa Sen làm chất xúc tác để Tổ Ca Diếp nhận ra cái Pháp "Vô" Vô Tướng là Bát Nhã Pháp. Lúc đó, Tổ Ca Diếp đang ở trạng thái Vô Vi, Tâm của Ngài đã đạt tới đầu  nguồn là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa" Tâm. Còn Cành Hoa Sen là Cành Hoa Sen,  Pháp vẫn  là Pháp, Bóng Trăng vẫn là Bóng Trăng không phải Mặt Trăng thật. Tuy nhiên, ngay cửa Vô Vi với cái Tâm Ba La Mật Đa ở tận đầu nguồn, trực chỉ thấy ngay tức thì Pháp mà Vô Pháp nhưng cũng là Pháp và Pháp chính là Pháp "Vô" Vô Pháp (Pháp, Phi Pháp,Vô Phi Pháp) tức là Bát Nhã Pháp ; Bóng Trăng không phải là Bóng Trăng nhưng cũng là Bóng Trăng và Bóng Trăng chính là Mặt Trăng thật; Cành Hoa Sen không phải là Cành Hoa Sen nhưng cũng là Cành Hoa Sen và Cành Hoa Sen chính là Bát Nhã đồng nhất với Vạn Pháp và Hư Không vô biên là Một. Tất cả đều Như !

Câu 1: " QuánTự Tại Bồ Tát hành thâm " Bát Nhã Ba La Mật " đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách":

- QuánTựTại Bồ Tát:
Sau khi trực tiếp khai thị chỉ thẳng Bát Nhã với Đệ Nhất Cú: "Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa" Tâm, Đức Phật quay lại khúc phim chậm: từng bước chỉ rõ từng đường kiếm để ngộ nhập. Phật lấy thí dụ:  hãy xem gương Vị Bồ Tát tên là QuánTựTại hành thâm Pháp Bát Nhã nhiều thời (đa thời), cuối cùng được Giải Thoát độ tất cả các thứ khổ ách: sinh lão bệnh tử trong lục đạo luân hồi ! Vậy Vị Bồ Tát QuánTựTại "hành thâm" Pháp "Bát-Nhã-Ba-La-Mật" như thế nào ? Tổ nói kệ :

                                  “Bồ Tát siêu Thánh Trí              
                                   Lục xứ tất giai đồng                  
                                   Tâm Không QuánTựTại             
                                   Vô Ngại Đại ThầnThông
Thiền môn nhập Chánh Thọ          
                                   Tam Muội nhiệmTây Đông         
                                   Thập phương du lịch biến         
                                    Bất kiến Phật hành tung”.   .
  (Bồ Tát vượt Thánh Trí
  Sáu xứ rốt chung đồng
  Tâm Không Quán Tự Tại
  Vô Ngại Đại Thần Thông
  Cửa Thiền vào Chánh Thọ
  Tam Muội mặc Tây Đông
  Mười phương trải chơi khắp
  Nào thấy Phật hành tung)
Bồ Tát QuánTựTại ngồi Thiền, quán nơi Tự Tâm. Sáu Căn đồng nhất như một và không khởi niệm đạt đến Tâm Không. Sáu Thức chuyển thành Trí vượt cả Thánh Trí. Sáu Căn trở thành Sáu Ban Thần Dụng vô ngại. Nhập Định Tam Muội du lịch cả mười phương Phật không thấy đâu là hành tung Phật. Không thấy hành tung Phật, vì Phật là Vô Tướng không có hình tướng, là Thiên Chân Phật, là Phật Thật cùng với vô lượng Phật nhập vào "Tánh rỗng lặng " bình đẳng, là cái " Rỗng  Thênh Không Thánh" của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, cái "Bổn Lai Vô Nhất Vật" của Lục Tổ Huệ Năng, là "Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa". Hãy lấy Chiêm Bao ra kiểm chứng : Cái Thân Thật đang nằm ngủ mê sinh ra thế giới Chiêm Bao. Trong Chiêm Bao, không thể thấy được cái Thân Thật đang nằm ngủ mê, mà chỉ thấy toàn là Hư Không rỗng lặng. Cái Hư Không rỗng lặng này tương ứng với cái "Rỗng Thênh  Không Thánh", cái "Bổn Lai Vô Nhất Vật" hay cái "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa". Thiền môn nhập Chánh Thọ, tức là dùng cái Thân Giả trong Chiêm Bao ngồi Thiền nhập Định đạt đến Vô Vi thì cái Thân Giả trong Chiêm Bao nhập vào cái Thân Thật, tức là nhập vào cái Hư Không rỗng lặng thấy được cái Thân Thật và Thân Thật này chính là Pháp Thân, Bát Nhã hay Niết Bàn.

-Hành thâm "Bát-Nhã-Ba-La-Mật" đa thời:

                 "Lục niên cầu Đại Đạo
                   Hành thâm bất ly thân
                   Bát Nhã Tâm Giải Thoát
                   Đáo Bỉ Ngạn đầu nhân
                   Thánh Đạo Không tịch tịch
                  "Như thị ngã kim văn"
                   Phật hành bình đẳng ý
                   Thời đáo tự siêu quần"

  Vị Bồ Tát liên tục sáu năm cầu Đạo lớn hành sâu không lìa thân Pháp Bát Nhã với Tâm Giải Thoát không chấp dính hay chướng ngại Lục Trần. Đến thời điểm chín muồi tự siêu quần nhập vào Tánh Không tịch diệt bình đẳng với vô lượng Chư Phật. Hành thâm Pháp Bát Nhã là Thiền Quán hay Thiền Định đi sâu vào Tâm tới cửa Vô Vi đạt tới Tâm Không. Khi ấy Tâm đồng với cái Hư Không rỗng rang thanh tịnh  thấy Tánh thành Phật.

- "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách":

  "Tham ái thành ngũ uẩn             Tham ái thành năm uẩn
    Giả hiệp đắc vi thân                    Giả dối kết làm thân
    Huyết nhục liên gân cốt               Máu thịt liền gân cốt
    Bi` lý nhất đôi trần                      Trong da một đống trần
    Mê đồ sanh lạc trước                    Kẻ mê vui chấp dính
    Trí giả bất vị thân                        Người trí chẳng vì thân
    Tứ tướng giai qui tận                   Bốn tướng đều dứt bặt
    Hô thậm nải vi chân".                   Mới được gọi là chân.

BồTát QuánTựTại sau khi đã hành sâu Pháp Bát Nhã liên tục sáu năm bất ly thân và đã ngộ nhập Tam Muội. Khi đó chiếu kiến thấy rằng "Ngũ Uẩn Giai Không" nên không còn khổ và đạt đến Bờ Giải Thoát. Trong thế gian Mê, vì Tham Ái nên kết thành "Ngũ Uẩn" (Sắc Thọ Tưởng Hành Thức). Tất cả năm uẩn đều là giả không thật nhưng vì Tham vì Ái nên kết lại làm Thân. Tất cả máu thịt xương gân cốt trong cái đải da gọi là Thân này là cả một đống trần hôi thối mượn của thế gian trong Nghiệp Báo làm Thân rồi cũng vì Thân mà tạo thêm Nghiệp Báo. Nghiệp lại chồng lên Nghiệp, càng đi xa thì càng lạc vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh không có con đường trở về... Người Mê thì chấp dính vào Thân, suốt cuộc đời chỉ biết lo đánh bóng cái Thân giả tạm, lo cho nó ăn ngon ngủ kỹ mặc đẹp, luôn luôn trang điểm cho nó xinh đẹp trẻ mãi không già, thỏa mản cho nó đủ thứ  Pháp Trần: ái dục tham vọng quyền lực danh vọng tiền của nhà cao cửa rộng...Suốt cuộc đời chạy theo và chấp dính Pháp Trần giống như con Thiêu Thân lao vào đóm lửa đang cháy. Chúng sanh Mê đi lạc vào vòng Nghiệp Báo sinh tử luân hồi đầy phiền não, quên đi chính mình với Bản Tâm thanh tịnh có sẳn Viên Trân Châu rực sáng chiếu khắp mười phương, không phiền não, không sinh diệt, an trú nơi Niết Bàn thường lạc ngã tịnh ! Người Trí thì chẳng chấp Thân cũng không hủy hoại Thân, biết giữ lấy Trung Đạo. Không quá hoan lạc hưởng thụ xa xỉ, cũng không quá keo kiệt khổ hạnh hành Thân. Sống "thiểu dục tri túc" mượn thế gian bát cơm đạm bạc vừa đũ no, manh áo rách vừa đũ ấm để che Thân, cốt tìm Thiện Hữu Tri Thức học Đạo chỉ Con Đường Giải Thoát, rồi giữ vững tay chèo nhắm thẳng phương hướng mượn Thân làm chiếc Bè để qua sông "Bên Kia Bờ Giác", đến được Bờ rồi thì tùy hỉ trả nó lại cho PhápThế Gian, không cố chấp nắm bắt lấy nó.

Tóm lại trong Câu 1, Đức Phật chỉ Tấm Gương của Vị Bồ Tát Quán Tự Tại làm khuôn mẫu. Vị Bồ Tát liên tục hành sâu không lìa thân Pháp Bát-Nhã-Ba-La-Mật : dùng Thiền Định đạt đến Tâm Không, cả Sáu Căn đồng loạt đạt đến Vô Niệm, chuyển Thức thành Biển Trí, ngộ nhập Tánh Không rỗng lặng, đạt Bờ Giải Thoát. Khi đó chiếu kiến thấy rằng "Ngũ Uẩn Giai Không" nên không còn bất cứ khổ ách nào, an lạc trong Niết Bàn Vô Sanh. Thấy rõ Ngũ Uẩn  trong Mê là giả không có thật, vì mê lầm chấp có nên khổ, bị cái Bóng Mê Ngũ Uẩn làm điên đảo trong Sinh Tử Luân Hồi. Cũng khi đó, thấy rõ cái Tướng thật của Ngũ Uẩn là "Giai Không", tức là vừa không có ở trong Mê, vừa là cái "Không" Vô Tướng ở trong Ngộ hòa nhập trong Thể Tánh Không.  Đây là cái thấy viên mản  cả hai mặt Thể và Dụng y như nó Đang-Là và tới chỗ Vô Vi : Thể và Dụng là Một. Về mặt Dụng, Ngũ Uẩn là cái Bóng Ảo do Tâm Mê khởi Động mà sinh ra cái Tướng Động-Dụng, nó không thật có nhưng vì lầm cho là thật, là cái Ta Hữu Ngã đang hiện hữu  nên cố chấp và nắm bắt, do đó niệm niệm  khởi động trong  Mê sinh ra cái Tướng Động-Dụng giả tạo trong Luân Hồi, không thoát ra được. Cũng như Mặt Biển cứ mãi Động-Dụng trong Gió Bão thì sinh ra cái Tướng Động-Dụng là Sóng. Càng Động lại càng điên đảo không thể soi chiếu và thấy rõThế Giới Thật y như nó Đang-Là. Còn về mặt Thể, tướng thật của Ngũ Uẩn là Tánh Không ở trong Ngộ,  hòa cùng Biển Tánh làm Một thoát khỏi luân hồi , ngộ nhập Niết Bàn. Cũng như Mặt Biển lặng yên, không có tác động của Gió Bão, nên trong sáng và phẳng lặng như Gương, phản ảnh rõ ràng cái Thật Tướng của Chân Lý là Thế Giới Thật thanh tịnh của Bát Nhã Niết Bàn. Khi Mê trong Chiêm Bao, thì chỉ thấy toàn là cái Tướng Động-Dụng do Tâm Mê dấy động khởi niệm, sóng Vô Minh và Nghiệp Chướng nổi lên hiện hành thành những cái Tướng giả, Bóng giả  tưởng lầm cho là thật, cho nên thấy có Thân thật, Ngũ Uẩn thật và Thế Giới thật ứng theo Nghiệp Lực. Nếu cứ cố chấp hằn sâu trong Tâm theo đuổi mãi những cái Bóng Mê giả tạo này thì không bao giờ "thức dậy" được. Còn khi tỉnh giấc Chiêm Bao, Thức Dậy hay Ngộ Đạo, thì rõ ràng là Ngũ Uẩn trong Mê hay Chiêm Bao đều mất, tất cả hòa nhập vào cái Không rỗng lặng là Bát Nhã Niết Bàn, thoát khỏi phiền não và sinh tử luân hồi.

Câu 2: "Xá Lợi Tử: Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc;  thọ tưởng hành thức diệc phục như thị".

Đức Phật khai thị cho Ngài Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác với Không, Không cũng chẳng khác với Sắc; rồi Đức Phật nhấn mạnh: Sắc tức là Không và Không cũng chính là Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức trong Ngũ Uẩn cũng y như vậy. Cái Thân Thật trong Chiêm Bao chính là cái Hư Không rỗng lặng vô biên . Khi Tâm Mê khởi niệm thì cái tướng Sắc Không đối đãi hiện ra trong cái Hư Không rỗng lặng này sinh ra Thế Giới Chiêm Bao. Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cũng vậy, đều là Không, chỉ hiện ra cái tướng giả trong Chiêm Bao. Do đó, khi lấy giấc Chiêm Bao ra phân tích, thì rõ ràng Sắc chẳng khác với Không, Không cũng chẳng khác với Sắc; Sắc cũng chính là Không, Không cũng chính là Sắc, đều là hai cái tướng giả, là Bóng Ảo trong Chiêm Bao. Cái Thân Thật mà trong Chiêm Bao chỉ thấy toàn là Hư Không rỗng lặng, hiện ra tướng Sắc tướng Không đối đải sinh ra sơn hà đại địa là Y Báo và muôn loài chúng sanh là Chánh Báo. Tất cả do Tâm Mê đang động mà khởi niệm. Nếu Tâm tịnh trở về Gốc rỗng lặng thanh tịnh đạt tới Tâm Không thì thấy được cái Thân Thật là Pháp Thân, là Bát Nhã Niết Bàn !
Như vậy, nhờ Tâm mà đạt Đạo đạt tới Tâm Gốc hoàn toàn thanh tịnh khi đó Phật Tánh hiện bày ngay chính trong cái Thân Tứ Đại giống như hoa sen vượt ra khỏi mặt nước hay bùn lầy hôi thối hiện bày trong cái Không tịch diệt vô tướng, chứng được Trí Tuệ Bát Nhã mênh mông như Biển Lớn vượt khỏi Tam Giới, không còn luyến tiếc cõi Ta Bà đầy ngũ trược và phiền não trong Lục Đạo Luân Hồi. Tổ Đạt Ma nói kệ :

"Đạt Đạo do Tâm Bổn,                Đạt Đạo Tâm là gốc
Tâm tịnh lợi hoàn đa                  Tâm lặng lợi bao la
Như liên hoa xuất thủy               Như sen nhô mặt nước
Đốn giác Đạo nguyên hòa          Thoát rõ gốc Đạo hòa
Thường cư tịch diệt tướng         Luôn ở nơi tịch diệt
Trí tuệ chứng nan qua               Trí huệ ấy ai qua
Độc siêu Tam Giới ngoại            Một mình siêu ba cõi
Bất cách luyến Ta Bà"               Hết luyến cảnh Ta Bà.

- Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc :

Đức Phật nói với Ngài Xá Lợi Tử: Khi chứng được Trí Bát Nhã rồi thì thấy được sự thật là : "Sắc chẳng khác với không và không cũng chẳng khác với sắc". Sắc với không đều là Một, vì sai lầm phân biệt trên Tướng nên thấy là hai. Ngoài cái Không tịch diệt là Thật Tướng Vô Tướng thì chẳng có cái Tướng Sắc nào cả. Không có cái Tướng Sắc giả tạm thì mới dung khoan trong cái Rỗng Không tịch diệt, đạt đến cái Tánh Vô Sanh thanh tịnh là ngộ nhập Niết Bàn. Tổ nói kệ:

"Sắc dữ không nhất chủng,        Sắc với Không một giống
Vị đáo kiến lưỡng ban.                Chưa rõ thấy hai đàng
Nhị thừa sanh phân biệt             Hai thừa đăm phân biệt
Chấp Tướng tự tâm man            Chấp tướng tự dối gian
Không ngoại vô biệt sắc              Ngoài Không chẳng khác Sắc
Phi sắc hữu năng khoan             Chẳng Sắc mới dung khoan
Vô sanh thanh tịnh Tánh            Vô sanh Tánh thanh tịnh
Ngộ giả tức Niết Bàn".                Ngộ ấy tức Niết Bàn.


- " Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc  ":

Và cũng khi chứng được Trí Bát Nhã thì thấy trực chỉ: " Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc ". Thật ra chẳng có cái Không với cái "Tướng Không"vô hình và cũng chẳng có cái Sắc với cái "Tướng Sắc" hữu hình. Hai cái Tướng Không và Tướng Sắc hay Tướng Có trong Nhị Nguyên đối đãi đều là Mê Vọng. Phải vượt qua khỏi hai cái tướng phân biệt Sắc Không đến Nhất Nguyên thì "Sắc tức là Không và Không tức là Sắc", khi đó Sắc Không đều là Một là Nhất Như là Thanh Tịnh Địa an lành. Giả sử như lấy Đất tạo ra các Tướng Sắc như sơn hà đại địa cầu đường nhà cửa mặt trời mặt trăng... và cũng lấy Đất tạo ra cái Tướng Không là Hư Không đối đãi và phân biệt với các Tướng Sắc rồi dùng tay khỏa lấp đều các Tướng thì tất cả đều là Đất vô phân biệt và bình đẳng: Tướng Sắc, Tướng Không đều là Đất là Một. Do đó chẳng có "Cái Không Có Tướng" là Tướng Không mà chỉ có "Cái Không Không Tướng" là cái Chân Không rốt ráo là "Thực Tướng Vô Tướng" vi diệu. Cũng chẳng có "Cái Sắc Có Tướng" là Tướng Có mà chỉ có "Cái Sắc Không Tướng" là cái Chân Sắc phân minh rõ ràng cũng là "Thực Tướng Vô Tướng" và cái Chân Sắc Vô Tướng này là Ánh Sáng Bát Nhã hay Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni tạo ra Tam Giới. Hai cái Chân Không và Chân Sắc này đều Vô Tướng là Viên Ngọc và Ánh Sáng của Viên Ngọc. Viên Ngọc và Ánh Sáng của Viên Ngọc là Một là Chân Không nhưng Diệu Hữu: Không mà chẳng Không, Sắc mà chẳng Sắc và Sắc tức Không, Không tức Sắc. Thấy đồng thời cả Thể và Dụng đồng nhất như Một, Sắc và Không vô phân biệt: "Vô tướng vô không vô bất không, tức thị Như Lai chân thật tướng". Như vậy tướng Sắc Không này là không có và thân Tứ Đại (Đất Nước Gió Lửa) của chúng sanh cũng không có, mà chỉ thấy có ở trong Mê. Khi đạt đến Đất Như Lai rồi thì thấy được cả Thực Tướng Vô Tướng Sắc Không là Một, là Như, cả hai đều là Như Lai Địa. Tổ Đạt Ma nói kệ:

          "Phi không, không bất hữu,         Chẳng không, không chẳng có
Phi sắc, sắc vô hình                     Chẳng sắc, sắc không hình
Sắc không đồng qui nhất            Sắc không về một mối
Tĩnh thổ đắc an ninh                   Đất tịnh được an lành
Phi không, không vi diệu            Chẳng không, không là diệu
Phi sắc, sắc phân minh                Chẳng sắc, sắc phân minh
Sắc không giai phi tướng            Sắc không đều chẳng tướng
Thậm xứ lập thân hình".            Nơi đâu dựng thân mình.

Điều này Tấm Bản Đồ Chiêm Bao chỉ rất rõ nét. Trong Chiêm Bao Sắc cũng chẳng khác với Không và Không cũng chẳng khác với Sắc. Ngay cả Sắc tức là Không và Không cũng tức là Sắc. Sắc và Không đều  không có, đều là cái Tướng Giả hay cái Bóng Sắc Không của cái Hư Không rỗng lặng hay là cái Thân Thật đang ngủ mê biến chiếu ra. Do đó cái Thân Ngũ Uẩn Sắc Không trong Chiêm Bao  không có thật, chỉ là Bóng Ảo, khi thức dậy là mất. Do dó, Sắc Không đều qui về Một, là Đất Tịnh, là cái Không hay cái Hư Không rỗng lặng, cái Thân Thật nơi Thế Giới Ngộ, là Thật Tướng Vô Tướng hay Bát Nhã Ba La Mật.

Câu 3: " Xá Lợi Tử: Thị Chư Pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung".

Phật bắt đầu giải thích cho Ngài Xá Lợi Tử hiểu rõ Pháp "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa" là gì ?
Phật nói Bát Nhã là vô tướng chẳng sanh diệt, chẳng nhơ sạch, không tăng giảm, chẳng đầu chẳng cuối hay chặng giữa mà ở trùm khắp vô biên. Phật thuyết Pháp Bát Nhã là "Pháp Không, Không Pháp" tức là cái Rỗng Không không có một Pháp để thấy vì nó là cái Thực Tướng Vô Tướng vi diệu, không thể dùng lời nói hay văn tự thế gian để diển tả được vì nó là phi Tâm phi Phật phi vật phi phàm...
Bát Nhã thì Vô Tướng cho nên không thể chấp tướng mà cầu được, chỉ tìm Kinh mà hiểu được Lý hay Lẽ Đạo rồi “hành thâm” mà ngộ nhập đạt nên Sự. Một khi đã đạt được cái Thực Tướng Vô Tướng này rồi thì không cần phải học văn tự chữ nghĩa trong Kinh Điển vì Kinh Điển chỉ là ngón tay để chỉ Mặt Trăng. Một khi đã thấy được Mặt Trăng thật rồi thì không cần đến ngón tay nửa. Khi đã đốn ngộ Pháp Không này rồi thì không còn cần phải Tu mà đã thênh thang vượt tất cả Pháp Giới an nhiên tự tại không còn phải lo âu phiền não về sinh lão bệnh tử trong lục đạo luân hồi. Tổ Đạt Ma nói kệ:

           "Chư Phật thuyết Không Pháp     Chư Phật nói Pháp Không
Thanh Văn hữu tướng cầu           Thanh Văn chấp tướng cầu
Tầm kinh mịch Đạo Lý                 Tìm Kinh kiếm lẽ Đạo
Hà nhật học tâm hưu                    Bao giờ học tâm thôi
Viên thành chân thật tướng          Viên thành tướng chân thực
Đốn kiến bãi tâm tu                       Chợt rõ bỏ ý tu
Quýnh nhiên siêu Pháp Giới         Thênh thang vượt Pháp Giới
Tự tại cánh hà ưu".                       Tự tại hết lo âu.

Pháp Bát Nhã này thanh tịnh, vô tướng, là cái chân thật rộng khắp vô biên như Hư Không không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không cựu cũng không tân, chẳng nhiễm nơi Pháp Trần trong hay đục, độc siêu trùm khắp vượt khỏi Tam Giới. Tổ nói kệ:

"Lô xá thanh tịnh thể                    Lô Xá thể thanh tịnh
Vô tướng bổn lai chân                   Vô tướng tự nhiên chân
Như không giai tổng biến              Như Hư Không rộng khắp
Vạn kiếp thể trường tồn                Muôn kiếp vẫn trường tồn
Bất cộng giai bất trước                  Chẳng chung chẳng riêng rẽ
Vô cựu diệc vô tân                          Không cựu cũng không tân
Hòa quang trần bất nhiễm           Hòa đục trong chẳng nhiễm
Tam giới độc vi tôn"                      Ba cõi một mình tôn.

Pháp Bát Nhã này chính là Thể Như Lai vô tướng. Nói là vô tướng tức không tướng nhưng cũng chẳng phải là không tướng (phi tướng phi phi tướng), sinh ra thế giới mà cũng chẳng phải là thế giới (thế giới phi thế giới) đầy dẫy khắp mười phương là cái Không hay Chân Không vi diệu không tăng không giảm, không chướng ngại, không ở ngoài không ở trong hay ở chặng giữa mà trùm khắp vô biên là Pháp Thân Phật hòa nhập và bình đẳng trong Tam Giới.Tổ nói kệ:

           "Như Lai Thể vô tướng               Thể Như Lai không tướng
Mãn túc thập phương không      Đầy dẫy mười phương không
Không thượng nan lập hữu        Trên "Không" chẳng lập "có"
Hữu nội bất kiến không              Trong "có" chẳng thấy "Không"
Khán như thủy trung nguyệt      Xem như nguyệt trên sông
Văn như nhĩ bạn phong              Nghe như tai gió thoảng
Pháp Thân hề tăng giảm             Pháp Thân nào thêm bớt
Tam Giới hiệu Chân Không"      Ba cõi gọi Chân Không.

Tóm lại, Pháp Bát Nhã này giống như Tấm Bản Đồ Chiêm Bao mà không phải là Chiêm Bao. Nghĩa là như cái Thân Thật đang Chiêm Bao hiện ra cái Tướng Hư Không rỗng lặng vô biên trong Chiêm Bao nhưng lại không Mê để sinh ra cái Bóng là Thế Giới và Chúng Sanh trong Chiêm Bao. Cái Hư Không Vô Tướng rỗng lặng trong Chiêm Bao mà không phải Chiêm Bao này chính là cái Không hay cái Chân Không Rỗng Thêng Không Thánh, không có một Vật. Là Thế Giới của cái Thực Tướng Vô Tướng, Pháp Thân hay Bát Nhã Niết Bàn phi Tâm phi Phật phi Vật phi Phàm phi nội phi ngoại phi không phi hữu... ứng cơ sinh ra vạn pháp.

Câu 4: "Vô sắc vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố".

-" Vô sắc vô thọ tưởng hành thức :
Ở đây Đức Phật đi sâu vào chi tiết hay Bản Chất của Pháp Bát Nhã, nó không có Ngũ Uẩn (Sắc Thọ Tưởng Hành Thức). Sắc gốc của nó là không có, chỉ là giả hợp hay bóng ảo. Thọ thì ý vẫn y như vậy, như hơi ấm xoa tay thì thấy ấm, ngưng đi thì mất. Tưởng thì chỉ là vọng ở bên ngoài tác động vào Tâm, giống như Bóng Ảnh ở trong Gương, nên không thật có. Còn Hành tuy không có, chỉ tác thì mới thấy Hành, vô tác thì Hành mất trở về không. Thức cũng vậy, tuy không có, nhưng do Sáu Căn chấp dính với Sáu Trần mà hiện hữu. Lìa Sáu Trần không chấp dính nửa thì có lại trở về không. Tóm lại, tuy Ngũ Uẩn thực chất là không có, nhưng nó lại hiện hữu trong Pháp Thế Gian như thật, khi thì có khi thì không, khi sống khi chết, khi thành khi hoại, là nhị nguyên đối đãi trong Mê. Do đó phải vượt lên sắc không, tâm phải lìa hết sắc không, vượt qua nhị nguyên đối đãi thì mới thấy được cái thần thông diệu dụng trên Nhất Nguyên rốt ráo : "Một là Tất Cả, Tất Cả là Một". Tổ nói kệ:

          "Vô Sắc bổn lai không                    Không Sắc bổn lai không
Vô Thọ ý hoàn đồng                      Không Thọ ý hoàn đồng
Hành, Thức vô trung hữu            Hành, Thức không trong có
Hữu tận khước qui không            Có hết lại về không
Chấp hữu thực bất hữu                Chấp có đâu thực có
Y không hựu lạc không                Theo không lại lạc không
Sắc không tâm câu ly                    Sắc không tâm lìa hết
Phương thỉ đắc thần thông"        Chừng ấy mới thần thông.

-" vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý ":
Pháp Bát Nhã không có Lục Căn. Thật ra Căn là do Nghiệp tạo ra Thân với số Căn khác nhau tùy theo Biệt Nghiệp của từng loài chúng sanh. Loài súc sanh thì sống theo Bản Năng không có Ý Căn hoặc nếu có thì ở mức độ rất thấp. Côn trùng sống trong Đất không có Ý Căn, Nhãn Căn, Nhĩ Căn...chỉ giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng Thân Căn để chạm xúc và thế giới của nó là Đất...Chúng sanh Người là cao cấp nhất có đủ Lục Căn : Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý. Lục Căn ứng theo Chánh Báo và Y Báo do Nghiệp tạo ra nên chỉ là giả hợp không có Tự Tánh. Y Báo có Lục Trần là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp là cái Thế Gian Tướng  tương ưng với Chánh Báo chúng sanh Người có Lục Căn là Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý. Ứng theo Tướng của Lục Trần mà Lục Căn hiện bày : Nhãn Căn nhìn thấy Sắc duyên theo Vọng Cảnh giả tạo. Nhĩ Căn mê theo tiếng vọng chạm xúc Thanh Trần điên đảo. Thiệt Căn thưởng thức Vị Trần độc hại hoặc nói ra điều nhân ngã khôi hài. Tỷ Căn phân mùi hương thơm giả dối. Thân Căn, Ý Căn chạm xúc với tình đời đầy dục vọng. Khi nào Lục Căn thanh tịnh, không còn tham ái kết chặt với Lục Trần, thì thoát khỏi ngục tù trong Mê Vọng Nghiệp Chướng, muôn kiếp chẳng  luân hồi. Tổ nói kệ:

           "Lục Căn vô Tự Tánh                     Sáu Căn không Tự Tánh
Tuy tướng dữ an bài                      Theo tướng đặt bày thôi
Sắc phân duyên thanh hưởng        Sắc duyên theo tướng vọng
Nhân ngã Thiệt khôi hài                Nhân ngã lưỡi đùa chơi
Tị hoặc phân hương khứu             Mủi dối phân mùi ngửi
Thân, Ý dục tình quai                    Thân, Ý đắm tình đời
Lục Xứ tham ái đoạn                      Sáu nơi tham muốn hết
Vạn kiếp bất luân hồi".                  Muôn kiếp chẳng luân hồi.

- " vô sắc thanh hương vị xúc pháp "
: Bát Nhã không có Lục Trần. Lục Trần theo vọng mà khởi, không  có thật. Trong Chiêm Bao, do Tâm Mê khởi niệm mà hiện ra Thế Giới Chiêm Bao là Y Báo với Sáu Tướng của Lục Trần là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp tương ứng với Sáu Tướng của Lục Căn là Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân Ý của chúng sanh Người, là Chánh Báo để thọ Nghiệp Chiêm Bao. Nếu Tâm còn Mê thì vẫn còn Chiêm Bao, Nghiệp Chướng tàng trữ trong A Lại Da Thức cứ nổi lên hiện hành với phiền não lậu hoặc sinh tử luân hồi, không biết đâu là con đường Giải Thoát. Nếu chứng Trí Bát Nhã hay thức dậy thì Thế Giới Chiêm Bao không còn, Lục Trần không có, sinh tử chấm dứt, chứng quả Bồ Đề, các Pháp với Lục Trần trong Chiêm Bao không còn mà là Thực Pháp Tánh Không vô trụ. Tổ nói kệ :

           "Chứng Trí vô Thanh, Sắc              Chứng trí không Thanh, Sắc
Hương, Vị, Xúc tha thùy                 Hương, Vị, Xúc khác gì
Lục Trần tòng vọng khởi                Sáu Trần theo vọng dậy
Phàm tâm sự hoặc nghi                  Tâm phàm tự dối nghi
Sanh tử hưu sanh tử                         Sanh tử thôi sanh tử
Bồ Đề chứng thử thì                         Bồ Đề chứng một khi
Pháp Tánh Không vô trụ                 Pháp Tánh Không vô trụ
Chỉ khủng ngộ tha trì"                     Chỉ sợ ngộ chậm thì.

-" vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới ":
Pháp Bát Nhã không có Lục Thức. Trong Thế Giới Mê hay Thế Giới Chiêm Bao có Lục Căn có Lục Thức (NhãnThức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý thức). Lục Trần chỉ là Vọng, Bóng Ảo không thật nhưng Sáu Căn khởi niệm ôm chấp huân tập vào thành Lục Thức chứa chấp tàng trữ dính mắc cột trói trong Tâm. Năng và Sở đối đãi sinh ra Ngã Chấp cột trói trong Mê. Y Báo là Thế Giới ngoài ta nhưng do sự ưa thích ái dục dính mắc thành ra Thế Giới của Ta hay Thế Giới trong Ta rồi điên đảo mắc kẹt trong Nghiệp Chướng Luân Hồi. Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Thân Thức, Ý Thức nương theo Vọng Trần điên đảo và giả dối mà hiện hữu, không phải là Trí Huệ chân thật thâm sâu phản ảnh Chân Lý...Thiệt Thức, Tỷ Thức cùng mê hoặc theo Pháp Trần tạo thêm Nghiệp Ác trong Luân Hồi. Tất cả đều làm cho Tâm Vương đi lạc hướng theo Vọng Trần điên đảo, không trở về lại cái Gốc Chân Nguyên thanh tịnh để được Giải Thoát. Do đó, không mong đợi được gì trong Sáu Thức mà hãy mau đốn ngộ hướng Như Lai để được Giải Thoát bằng cách hướng về cái Tâm Gốc rỗng lặng thanh tịnh, không có Sáu Thức khuấy động, không có Sáu Trần quấy nhiễu, an nhiên tự tại chốn Vô Vi với Niết Bàn thanh tịnh.

           "Lục Thức tòng vọng khởi             Sáu thức theo vọng dậy
Y tha tánh tự khai                       "Y tha" tánh tự khai
Nhãn Nhĩ kiêm Thân Ý                 Mắt tai luôn thân ý
Thùy khẳng tự lượng tài               Ai lượng được trí tài
Thiệt Tị hành điên đảo                  Lưỡi mủi gây điên đảo
Tâm Vương khước hiển hồi          Tâm Vương lạc hướng hồi
Lục Thức trung bất cửu                Đợi gì trong Sáu Thức
Đốn ngộ hướng Như Lai"             Đốn ngộ hướng Như Lai.

- " vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận ": Pháp Bát Nhã cũng không có Vô Minh nên không có Vô Minh tận, không có Lão Tử nên không có Lão Tử tận. Trong Chiêm Bao hay cõi Mê có Vô Minh có Lão Tử, nhưng chỉ là Bóng Ảo không thật. Khi thức dậy thì chúng hoàn toàn biến mất. Vì Mê nên có năng có sở phân biệt với nhị nguyên đối đãi, do đó có nhân duyên cấu kết giữa năng và sở sinh ra Thế Giới Mê. Trong Mê bước đầu là do Vô Minh rồi Hành tiếp nối duyên khởi trong Thập Nhị Nhân Duyên mà có sinh tử luân hồi đầy phiền não. Vì có Thân, chấp Thân này là thật nên có Vô Minh và hai tướng Sinh Tử đối đãi. Khi đạt Trí Bát Nhã thì thấy rõ Thân này là giả không có, ngũ uẩn giai không. Do đó, khi không có Thân thì Vô Minh không có, không còn thọ báo Nghiệp Chướng trong luân hồi. Biết chắc rằng Thân này chỉ có trong Mộng Mị hay Chiêm Bao do Tâm Mê khởi Động mà Sóng Nghiệp và Vô Minh nổi lên hiện hành tạo ra cái Tướng Động Dụng ở trong Mê ứng theo Nghiệp Lực và Vô Minh. Khi ngộ cái Vô Vi hay khi thức dậy khỏi giấc Chiêm Bao thì rõ ràng cái Thân Giả trong Chiêm Bao liền mất mà chỉ có cái Thân Thật không Tướng Mạo là Pháp Thân, là Bát Nhã Niết Bàn. Tổ Đạt Ma nói kệ:

          "Thập Nhị Nhân Duyên hữu         Vì mười hai nhân duyên có
Sanh hạ lão tương tùy                  Sanh lão mới tương tùy
Hữu thân Vô Minh chí                 Thân có, Vô Minh đến
Nhị tướng đẳng đầu tề                 Hai tướng hiện liền khi
Thân tận Vô Minh tận                 Thân hết, Vô Minh hết
Thọ báo khước lai kỳ                   Thọ báo hết hẹn kỳ
Trí thân như huyễn hóa               Rõ thân như mộng mị
Cấp cấp ngộ Vô Vi".                    Gấp gấp ngộ Vô Vi.

- " vô khổ tập diệt đạo ":
Pháp Bát Nhã không có Khổ Tập Diệt Đạo.Trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới) vì Tam Độc : Tham Sân Si làm nhiều điều ác tạo Nhân là Tập Đế tức là Tập Nghiệp tích lũy trong nhiều đời nhiều kiếp mà phải chịu Quả là Khổ Đế trong Lục Đạo Luân Hồi. Muốn thoát Khổ trở về nơi Diệt Đế Niết Bàn thì phải có Con Đường đi là Đạo Đế. Do đó trong Tam Giới, Khổ Tập Diệt Đạo là Chân Đế là Sự Thật Chân Lý rõ ràng và chắc chắn. Chúng sanh muốn thoát Khổ trở về nơi Tịch Diệt Niết Bàn thì chỉ có duy nhất và chắc chắn là đi theo Con Đường Đạo Đế của Chư Phật. Trong khi đó Pháp Bát Nhã thì vượt khỏi Tam Giới cho nên không có Khổ Tập Diệt Đạo. Pháp Bát Nhã là Đốn Giáo, ngộ nhập tức thì thấy rõ ràng không có Tập Đế nên không còn Khổ mà tự nhiên thành và sống trong cái Không Tịch Diệt . Hàng Thanh Văn không còn ôm Vọng Tưởng, hàng Duyên Giác Tâm được yên lành. Bởi vì với Pháp Bát Nhã, cái Tâm đã đi đến tận Gốc Vô Vi là Tâm Ba La Mật Đa, tức là “Tâm Không” không còn trệ quanh nơi Hư Vọng và các Tướng giả nơi Ngũ Uẩn. Tổ Đạt Ma nói kệ:
          "Tứ Đế hưng Tam Giới                   Bốn Đế hưng ba cõi
Đốn giáo nghĩa phân minh           Đốn giáo nghĩa phân minh
Khổ đoạn Tập dĩ diệt                    Khổ dứt, Tập đã diệt
Thánh Đạo tự nhiên thành           Đạo Thánh tự nhiên thành
Thanh Văn hư vọng tưởng           Thanh Văn thôi tưởng dối
Duyên Giác ý an ninh                   Duyên Giác ý yên lành
Dục tri thành Phật xứ                   Muốn biết nơi thành Phật
Tâm thượng mạc lưu đình".         Trên Tâm đừng trệ quanh.
- " vô trí diệc vô đắc ":
Bát Nhã thì Vô Trí cũng như Vô Đắc.Bát Nhã  "Vô Tri Vô Sở Bất Tri" nghĩa là tuy là “Vô Tri” là không biết nhưng “Vô Sở Bất Tri” tức là không có cái gì mà chẳng biết. Bát Nhã không cần cái Trí của Thế Gian. Bởi vì Trí Thế Gian dù có cao siêu cách mấy cũng chỉ là cái Trí điên đảo ở trong Nghiệp, không đúng với Sự Thật hay Chân Lý. Cho nên, Bát Nhã mới Vô Tri nghĩa là chẳng cần phải Tri cái Thế Gian Trí. Tuy Vô Tri mà Tri là Trí Huệ Phật còn gọi là Trí Huệ Bát Nhã hay Trí Bát Nhã mênh mông như Biển Lớn là Đại Trí : "Đại Trí Vô Tri vô sở Bất Tri, mãnh liệt Thường Tri, Thường Tri Vô Tri , giả danh gọi là Tri, phi Ngã và Ngã Sở, phi Tâm phi Ý.’’ Trí Huệ này không có Ngã Sở không có Tâm Thức hay Ý thức  nên không có cái Sở Đắc của Thế Gian Trí. Pháp Bát Nhã là Pháp Không không có năng sở để thấy như cái thấy của Thế Gian, nhưng Trí Huệ thì vô biên tự nhiên và thường trụ doTâm tự tại không còn một chút bợn nhơ của Pháp Thế Gian, trong sáng phẳng lặng như chiếc Gương,  soi sáng và chiếu khắp mười phương. Không cần phải đi đâu xa để tìm cái Đạo Tràng Bát Nhã này, mà Đạo Tràng  chính nơi  Tự Tâm. Chỉ cần Tâm lặng yên như chiếc Gương trong thì Biển Trí Bát Nhã hiện tiền, bất động mà siêu ba cõi đạt tới Cõi Thiện Huệ Pháp Vương. Tổ nói kệ:

          "Pháp bổn phi vô hữu                      Pháp vốn không, không có
Trí Huệ nan trắc lường                 Trí Huệ dễ đâu lường
Hoan hỉ tâm ly cấu                         Hoan hỉ Tâm lìa bợn
Phát quang mãn thập phương      Phát sáng ngập mười phương
Nan thắng ư tiền hiện                     Có gì hơn trước mắt
Viển hành Đại Đạo Trường           Tìm đâu xa Đạo Tràng
Bất động siêu bỉ ngạn                     Chẳng động qua bờ giác
Thiện Huệ Pháp Trung Vương".  Cõi Thiện Huệ Pháp Vương.

-“dĩ vô sở đắc cố ":
Pháp Bát Nhã không có Sở Đắc. Bát Nhã thì  trùm khắp là cái Không rỗng lặng vi diệu như một căn nhà trống vô biên mà tất cả chúng sanh đều ở trong đó. Vì Mê hiện ra cái Tướng Giả theo Nghiệp  trong Lục Đạo mà không biết mình đang ở trong căn nhà Bát Nhã. Giống như một Ông Trưởng Giả có Kho Báu vô tận của Ông Cha để lại nhưng vì mất Trí quên đi chỗ cất Kho Báu tưởng rằng mình nghèo nên sống trong cảnh bần cùng khổ sở. Khi tỉnh trí biết mình là Ông Trưởng Giả có Kho Báu vô tận thì không còn khổ tự nhiên mở cửa Kho Báu  đem ra dùng. Kho Báu  này có đủ các thứ Trân Châu Bảo Vật vô giá bao gồm cả Tứ Trí, Lục Độ, Thập Địa  tự mình đã có sẳn mà không biết. Do đó, khi phát hiện và đem  ra dùng thì không có cái nào là Sở Đắc cả vì không phải là cái có được từ bên  ngoài  mà cái đã có sẳn ở bên trong là cái Năng Đắc nơi Tự Tâm đồng với tất cả Pháp Giới bên ngoài làm Một. Tổ nói kệ:

          "Tịch diệt thể vô đắc                        Niết Bàn có gì chứng
Chân Không tuyệt thủ phan         Chân Không đặt níu quang
Bổn lai vô tướng mạo                    Xưa nay không tướng mạo
Quyền thả lập tam đàn                 Quyền biến dựng ba đàn
Tứ trí khai phá dụ                         Bốn trí mở pháp dụ
Lục độ hiệu đô quan                      Sáu độ ví ải quan
Thập địa tam thừa pháp                Mười địa ba thừa pháp
Chúng Thánh trắc tha nan".        Hàng Thánh khó luận bàn.

Câu 5: "Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viển ly nhất thiết điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn"

-" Bồ Đề Tát Đỏa ":
Sau khi giải thích rõ Bản Chất của Pháp Bát Nhã, Phật khuyên  tất cả Bồ Đề Tát Đỏa tức là tất cả chúng sanh phàm phu đủ mọi thành phần hành thâm Pháp Bát Nhã nơi Tự Tâm . Dù kính Phật nhưng không nên chạy theo Phật Tướng ở bên ngoài để cầu xin, mà chỉ cầu thấy Tánh nơi Tâm. Bởi vì khi Đốn Ngộ thì Tâm mình và Tâm Phật là Một, bình đẳng cùng hòa nhập vào Thể Tánh rỗng lặng thanh tịnh dung thông vô ngại vô phân biệt và trùm khắp. Tổ nói kệ:

"Phật Đạo chân nan thức          Phật Đạo thật khó thấu
Tát Đỏa thị phàm phu               Tát Đỏa là phàm phu
Chúng sanh yếu kiến Tánh       Chúng sanh cầu thấy Tánh
Kính Phật mạc Tâm cô              Kính Phật chớ phụ Tâm
Thế gian thiện trí thức               Ngoài đời thiện trí thức
Ngôn luận Pháp tế thô               Luận Pháp nói nông sâu
Đốn Ngộ Tâm bình đẳng           Đốn Ngộ Tâm bình đẳng
Trung gian hữu tương trừ"      Dứt hết hai bên lầm.

-“Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố":
Hàng phàm phu tầm thường như tất cả chúng sanh nếu y theo Pháp Bát Nhã này thì chắc chắn đạt được nhiều lợi ích không thể nghĩ bàn. Có Trí Huệ bao la như Biển Lớn. Không còn cái Nhân “Sở Y”là sự phiền não, nhiễm ô, chấp trước tạo thành thật thể luân hồi từ vô số kiếp trong quá khứ để gặt cái Quả “Năng Y” là sự khổ đau của chính mình với vô số kiếp trong lục đạo luân hồi.Tâm đạt đến chỗ Vô Vi trong ngoài là Tâm Không vượt thoát thành Tánh quảng đại vô biên, là Tánh “Không” dung thông tất cả Pháp Giới mười phương thấy rõ tất cả các Pháp. Tổ nói kệ:

           "Bát Nhã ngôn Trí Tuệ               Bát Nhã Trí Huệ ấy
Ba La vô sở y                              Ba La không sở y
Tâm không Tánh quảng đại     Tâm không Tánh trùm khắp
Nội ngoại tận Vô Vi                   Trong ngoài thấy Vô Vi
Tánh Không vô ngoại biện        Tánh "Không" không đại biện
Tam Giới đạt nhân hi                 Đạt giả có bao người
Đại Kiến minh Đại Pháp            Đại Kiến rõ Đại Pháp
Giai tán bất tư nghì".                 Tán tụng bất tư nghì.

- " Tâm vô quái ngại " :
Phàm phu y theo Pháp Bát Nhã này thì Tâm không còn bất cứ chướng ngại nào, được giải thoát. Ý không còn hạn hẹp theo Trí Thế Gian mà mênh mông rộng lớn như Hư Không : vượt  Bắc xuôi Nam, lên Đông về Tây, đi lên xuống dưới, tất cả đều không chướng ngại và Tâm luôn tự tại. Không còn Năng Sở hay Nhân Ngã mà rốt ráo đồng nhất như Một là Như Như không có một vật chướng ngại, tự do tự tại tung hoành trong Tam Giới hay khắp mười phương vô biên. Tổ nói kệ:

           "Giải Thoát Tâm vô ngại             Giải thoát Tâm vô ngại
Ý nhược Thái Hư Không           Ý tợ Thái Hư Không
Tứ duy vô nhất vật                      Bốn phương không một vật
Thượng hạ tất giai đồng             Trên dưới rốt chung đồng
Lai vãng Tâm tự tại                    Tới lui Tâm tự tại
Nhân Pháp bất tương phùng      Nhân Pháp chẳng chung cùng
Phỏng Đạo bất kiến vật               Hỏi Đạo chẳng thấy vật
Nhiệm vận xuất phiền lung".      Thong dong thoát chậu lồng.

Điều này cũng giống như Tuệ Trung Thượng Sĩ đạt tới cái Tâm vô ngại, Thân Ngũ Uẩn không còn bị xiềng xích trói bước trong cái lồng  ngục tù của Thế Gian đầy ngũ trược mà tung hoành ngang dọc trong cái Không hay cái Hư Không rỗng lặng vô biên, an nhiên tự tại:
“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
  Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
  Tam giới mang mang Tâm liễu liễu
  Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”.

(Xoay mình một ném vượt ra lồng
  Muôn sự đều không ,nhập mắt không
  Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
  Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
                                   (Tuệ Trung Thượng Sĩ). 

- " vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố ":
Tâm chẳng những vô ngại mà vô ngại một cách bền vững trường tồn, không còn bị khủng bố sợ sệt trong sinh tử. Cả Thân Tâm gửi nơi Vô Vi an lành không có một vật chướng ngại là Biển Tánh rỗng lặng vô biên không còn dính bụi bậm ô uế Pháp Trần. Ba Thân đã qui về nơi Đất Tịnh an lành, Bát Thức thì lìa Nhân Duyên không còn tạo Nghiệp, Lục Thông tùy theo Thực Tướng mà hiện bày. Tất cả đều qui về nơi Bản Gốc căn  nguyên  là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Tổ nói kệ:

           "Sinh tử Tâm khủng bố               Sanh tử Tâm lo sợ
Vô Vi Tánh tự an                        Vô Vi Tánh tự an
Cảnh vong Tâm diệc diệt            Cảnh quên Tâm cũng diệt
Tánh hải trạm nhiên khoan       Biển Tánh lặng dung khoan
Tam Thân qui tỉnh thổ               Ba thân về đất tịnh
Bát Thức ly Nhân Duyên            Tám thức lìa nhân duyên
Lục Thông tùy Thực Tướng       Sáu thông theo tướng thực
Phục bổn phước hoàn nguyên"  Quay đầu bổn lai nguyên.

-" viển ly nhất thiết điên đảo mộng tưởng ":
Hàng phàm phu, nếu y theo Pháp Bát Nhã này cũng có công năng cách xa tất cả điên đảo phiền não trói buộc ngục tù trong Thế Gian Mê. Như người đã tỉnh thức khỏi giấc Chiêm Bao với những cơn mộng tưởng hay ác mộng sinh tử luân hồi. Không còn Nhị Kiến Nhân Ngã hay Năng Sở trong Thế Gian Mê. Không cầu Phật ở bên ngoài, chỉ cần cầu Tâm của chính mình vì Tâm mình chính là Phật, và cái Tâm này thì dung thông bình đẳng với Tâm của tất cả Chư Phật khắp mười phương. Ngồi Thiền Thân Tâm vui lặng thanh tịnh đạt đến Vô Vi như trái chín đạt quả Niết Bàn. Khi không bận bịu Pháp Trần, Tổ Đạt Ma vẫn luôn ngồi Thiền nhập định Tam Muội úp mặt vào vách đá suốt 9 năm đợi Nhị Tổ Huệ Khả đến để khai thị truyền Mật Pháp. Tổ nói kệ:
           "Nhị biên thuần mạc lập                Hai bên toàn chớ lập
Trung đạo vật tâm tu                    Ở giữa chớ lầm tu
Kiến Tánh sanh tử tận                  Thấy Tánh sanh tử hết
Bồ Đề vô sở cầu                              Bồ Đề chẳng phải cầu
Thân ngoại mịch Chân Phật         Ngoài thân tìm Phật thực
Điên đảo nhất sanh hưu                Điên đảo bỏ đi thôi
Tĩnh tọa Thân an lạc                      Ngồi tịnh Thân vui lặng
Vô Vi cảnh tự châu"                      Vô Vi trái đến hồi.

-" Cứu Cánh Niết Bàn " :
Hàng phàm phu y theo Pháp Bát Nhã cũng đạt đến cái rốt ráo là Cứu Cánh Niết Bàn. Kiếm thuật "Vô Vi" với lưỡi kiếm "Vô" sắc bén trong Bát Nhã Kiếm của Phật chém đứt tất cả Vô Minh Nghiệp Chướng đạt Bờ Giải Thoát. Đó là cái “Tâm Vô” hay‘‘Tâm Không’’ lặng yên trở về Bổn Nguyên thành Biển Tánh  rỗng lặng vô biên, thấy Tánh thành Phật! Phải thấu rõ cái Lý "Vô" nơi đầu nguồn Tâm tới cửa Vô Vi, nơi đây Tâm không còn là Tâm mà là Phi Tâm Phi Phật Phi Vật, tất cả biến thể là “Vô”, cái Không rốt ráo rỗng lặng vô biên vi diệu, thấy Tánh là Cứu Cánh Niết Bàn .Tổ nói kệ:

           "Cứu Cánh Vô Sanh Tánh              Cứu Cánh Tánh vô sanh
Thanh tịnh thị Niết Bàn                 Thanh tịnh ấy Niết Bàn
Phàm phu mạc trắc Thánh             Phàm phu đừng luận Thánh
Vị đáo tức ưng nan                          Chưa đến biết chi bàn
Hữu học khước vô học                    Có học cùng không học
Phật Trí chuyển thâm huyền          Trí Phật chuyển sâu huyền
Yếu hội "Vô" Tâm lý                       Lý "Vô" Tâm cốt rõ
Mạc trước tức Tâm nguyên"           Đừng chấp lặng Tâm nguyên.

Câu 6: "Tam Thế Chư Phật y Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa cố, đắc A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Đề".

Đến đây Phật thuyết : suốt ba đời Chư Phật: quá khứ hiện tại và vị lai, y theo Pháp Bát Nhã này mà đạt Bờ Giải Thoát và chứng A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Đề. Khi chứng A-Nậu-Bồ-Đề thì có cái Trí Phật thâm sâu siêu việt vô lượng, có cái Huệ Nhãn quảng đại vô biên, có cái Tâm vô thượng biến hóa trùm khắp mười phương, có cái ánh sáng Từ Bi trải rộng khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Với cái Tâm tịch diệt thiện xảo khi chứng pháp A-Nậu-Bồ-Đề, Chư Phật và Bồ Tát có đầy đủ phương tiện Tam Minh Lục Thông dựng lên vạn pháp Thiền cứu khắp các cõi Trời và cõi Người đạt Bờ Giải Thoát. Tổ nói kệ:

"Phật Trí thâm nan trắc                 Trí Phật sâu không lượng
Huệ giải quảng vô biên                    Huệ giải rộng vô biên
Vô thượng Tâm chánh biến            Vô thượng Tâm chánh biến
Từ quang mãn Đại Thiên                Ánh Từ ngập Đại Thiên
Tịch diệt Tâm trung xảo                 Tịch diệt Tâm thiện xảo
Kiến lập vạn dư ban                        Dựng lên vạn pháp Thiền
Bồ Tát đa phương tiện                     Bồ Tát nhiều phương tiện
Phổ cứu vị nhân thiên".                  Cứu khắp vì nhân thiên.

Câu 7: "Cố tri Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa : thị Đại Thần Chú, thị Đại Minh Chú, thị Vô Thượng Chú, thị Vô Đẳng Đẳng Chú, năng trừ nhất thiết khổ chân thực bất hư.  Cố thuyết Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa Chú, tức thuyết Chú viết :
" Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha ",
" Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha ",
" Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha ".

Cuối cùng Phật thuyết Pháp Bát-Nhã-Ba-La-Mật là Đại Thần Chú linh ứng vi diệu trừ được tất cả khổ ách phiền não, Thân Tâm hoàn toàn thanh tịnh, sống an nhiên tự tại giữa Thế Gian đầy ngũ trược mà không hề ô nhiễm. Chẳng những tự độ được mình thoát khỏi sinh tử luân hồi mà còn đạt Trí Tuệ Bát Nhã, mang Gươm Tuệ diệt trừ Phiền Não độ khắp chúng sanh. Khi đó, Bát Thức lộ hết uy lực thần kỳ chuyển thành Tứ Trí mênh mông vô tận cuồn cuộn như biển sóng bao la : Ngũ thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức ) chuyển thành Thành Sở Tác Trí; Ý Thức chuyển thành Diệu Quán Sát Trí ; Mạt Na Thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại Da Thức chuyển thành Bạch Tịnh Thức hay Đại Viên Cảnh Trí.

Tâm thì soi chiếu và bao trùm toàn thể Pháp Giới , sáng tỏa cả Tam Thiên Đại Thiên, là Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni trùm khắp vô biên. Do dó, một khi  ngộ nhập Bát Nhã Pháp, mặc dù Thân còn tạm gửi cõi Ta Bà, nhưng Tâm vẫn luôn ở trong Định, an trú nơi cái Không, hòa nhập vào Tánh; còn Trí là Tuệ Kiếm Bát Nhã sắc bén chặt đứt hết mọi Vô Minh, Phiền Não, Nghiệp Chướng tích lũy từ vô số kiếp...chứng ngộ Pháp Bát Nhã là đạt quả rốt ráo Bồ Đề ! Tổ nói kệ :

          "Bát Nhã vi Thần Chú                      Bát Nhã là Thần Chú
Năng trừ ngũ uẩn nghi                   Trừ dứt năm uẩn nghi
Phiền não giai đoạn tận                  Phiền não cũng mất trọn
Thanh tịnh tự phân ly                    Thanh tịnh tự phân ly
Tứ Trí ba vô tận                              Bốn trí cuồn cuộn sóng
Bát Thức lộ thần uy                        Tám thức lộ thần uy
Tâm đăng minh Pháp Giới             Đèn Tâm soi Pháp Giới
Tức thử thị Bồ Đề ".                       Đó tức là Bồ Đề.

Bát Nhã cũng là Chú Vô Thượng Tối Thắng vượt trên tất cả Chú, là Giáo Chủ Ba Ngàn Cõi đưa người lên Bờ Giác.

          "Vô Thượng xưng tối thắng            Vô thượng xưng tối thắng
Bạt tế vị quần mê                           Bạt tế ấy quần mê
Ma Ha Tam Giới Chủ                   Giáo Chủ Ba Ngàn Cõi
Nguyện quảng khởi Từ Bi             Rộng mở nguyện từ bi
Năng thuận chúng sanh ý             Thuận lòng chúng sanh muốn
Tùy lưu dẫn hóa mê                      Tùy cảnh dẩn qua mê
Nhân nhân khởi bỉ ngạn               Người người lên Bờ Giác
Do ngã bất do y".                           Do mình chẳng do ai.

Bát Nhã là "Yết Đế ": Chân Đế linh ứng diệu dụng, là giềng mối Đạo Tối Thắng  tùy duyên đưa chúng sanh đến chỗ rốt ráo tận cùng là Đất Như Lai với Niết Bàn Vô Sanh.  Bát-Nhã-Ba-La-Mật  là Mật Chú không thể thấy được bằng Phàm Nhãn, không thể tiếp cận được bằng Phàm Tâm mà phải ngộ nhập qua cánh cửa Vô Vi hay Thiền Định với cái Tâm Không không còn ô nhiễm Pháp Trần. Bát-Nhã-Ba-La-Mật không ngắn cũng không dài, không ở ngoài biên cũng không ở chặng giữa...mà ở trùm khắp vô biên nơi nào cũng có. Tuy vô hình vô tướng... phi vật phi Phật phi phàm... mà vẫn trường tồn với vạn đại cổ kim vô thủy vô chung. Bát-Nhã-Ba-La-Mật là Vô Đẳng Đẳng Chú không có cái Chú nào bằng, có công năng linh diệu độ tất cả chúng sanh vô phân biệt thoát khỏi luân hồi, đến Bờ Giải Thoát, đạt cứu cánh Niết Bàn... Đây là duyên phướn "Lên Đường" cho tất cả chúng sanh hay những Kiếm Khách Giang Hồ vô danh đang ngày đêm luyện Bát Nhã Kiếm “hành thâm” Pháp “Bát-Nhã-Ba-La-Mật”, quyết đi theo Con Đường của Đức Phật Thích Ca đồng hành cùng ba đời Chư Phật quá khứ hiện tại và vi lai …

           "Yết Đế bổn tông cương                Yết Đế giềng mối Đạo
Phò cơ kiến pháp chường            Đưa duyên phướn "Lên Đường"
Như Lai Tối Tôn Thắng               Như Lai Tối Tôn Thắng
Phàm Tâm mạc đẳng lường         Phàm Tâm biết đâu lường
Vô biên vô trung tế                       Không bên cũng không giữa
Vô đoản diệt vô trường                Không ngắn cũng không dài
Bát-Nhã-Ba-La-Mật                     Bát-Nhã-Ba-La-Mật
Vạn đại cổ kim thường".             Suốt kim cổ hằng thường…

Tóm lại, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh với sự diển giải của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua những Bài Kệ trong Thiếu Thất Lục Môn, lấy Tâm làm Tông Chỉ, cửa Không làm cửa Pháp như Đức Phật đã khai thị. Diển giải này đồng điệu với những luận giải của các Vị Tổ và Thiền Sư khác. Bát Nhã Ba La Mật là Tấm Bản Đồ của Đức Phật Thích Ca trực tiếp chỉ thẳng Con Đường Giải Thoát. Trong Pháp Bát Nhã, từ Kiếm Thuật Bí Truyền của Phật ‘‘Niêm Hoa Vi Tiếu’’cho đến “Trực Chỉ Nhân Tâm, Kiến Tánh thành Phật’’ của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, “Vô Niệm’’ của Lục Tổ Huệ Năng, ‘‘Vô Vi’’ của Thiền Sư Huyền Giác…là những Thế Kiếm tuyệt vời, đạt Kim Cang Tuệ Kiếm hay Bát Nhã Kiếm. Cùng là lưỡi kiếm ‘‘Vô’’ sắc bén ‘‘Trực Chỉ’’ ngay cuối đường Tâm ngay cửa Vô Vi với cái Tâm ‘‘Ba-La-Mật-Đa’’ chém đứt Vô Minh ngộ nhập ‘‘Ma-Ha-Bát-Nhã’’ thấy Tánh thành Phật.‘‘Bát-Nhã-Ba-La-Mật’ trường tồn với vạn đại cổ kim, là Pháp Tối Thắng thường trụ vô thủy vô chung đưa duyên phướn "Lên Đường" đạt bờ Giải Thoát !

 

 

 

 

 

 

*Đại Thủ Ấn, một thứ Thiền Tông Tây Tạng (?!):
Phật Giáo Tây Tạng có Tông phái KAGYU thay vì gọi là Tánh, Tự Tánh, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà, Bát Nhã, Thực Tướng, cái Không hay Chân Như, Bản Tế… thì Tông này gọi là “Đại Thủ Ấn” (Mahamudra) là cái “rốt ráo” để ngộ nhập và chứng Đạo chẳng khác gì Thiền Tông! Hãy xem lời khẩu truyền “mật” của Vị Sơ Tổ TILOPA truyền lại cho Vị Tổ thứ hai là NAROPA được khám phá ở tu viện Gyalwa tại Rumtek, Sikkim (Tây Tạng). (Bản dịch bằng tiếng Anh của Kunzang Tenzin do Vô Huệ Nguyên, Việt dịch; người viết chỉ hiệu đính hai chữ (“Không Gian” thành “Hư Không”).

Đại Thủ Ấn:
Chí tâm đảnh lễ 84 Đại Thành Tựu Giả!
Chí tâm đảnh lễ Đại Thủ Ấn!
Chí tâm đảnh lễ Kim Cang Thánh Nữ!
1-Đại Thủ Ấn không thể truyền dạy. Nhưng Naropa, con là kẻ thông minh xuất chúng,
Con đã trải qua bao khổ hạnh,
Với lòng khoan dung nhẫn nại trong đau khổ và hết lòng với Đạo Sư,
Hỡi con yêu dấu, hãy cất giữ mật truyền này vào tim con.

2-Có gì nâng đỡ Hư Không bao la không? Nó tựa vào đâu?
Giống như Hư Không, Đại Thủ Ấn chẳng tựa vào đâu;
Con hãy thảnh thơi và an định trong thanh tịnh,
Hãy nới lỏng và buông bỏ mọi ràng buộc.

3-Khi nhìn chăm chú thấu suốt vào bầu trời trống rỗng thì nhãn quan chấm dứt;
Cũng như thế, khi Tâm tự nhìn thấu Tâm
Thì chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt
Lúc đó là Đại Ngộ.
Đại Thủ Ấn cũng giống như Hư Không rỗng không trong suốt, vô sở  trụ, trùm khắp, như như bất động và hoàn toàn thanh tịnh. Do đó phải thảnh thơi và an định trong thanh tịnh, buông bỏ hết mọi ràng buộc của thế gian thì mới có thể “làm bạn” và hòa nhập được với nó. Điều này Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng từng nhắc nhở :
“Cũng vì ham muốn phải long đong,
  Ném quách mà ra khỏi bụi hồng.
  Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ,
  Một lần phủi giũ, một lần xong”. 

Khi nhìn chăm chú thấu suốt vào Hư Không trống rỗng trong suốt không có một vật, thì nhãn quan chấm dứt, nhãn thức không còn. Cũng vậy, khi Tâm tự nhìn thấu Tâm thì Biển Sóng ý niệm lặng yên : Sóng về với Nước, lúc đó là Đại Ngộ. Điều này cũng chẳng khác gì khai thị của Tổ Đạt Ma : “Trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Hay khai thị của Thiền Sư Trương Chuyết : “Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện”. Vì khi chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt, Tâm không còn vọng tưởng và lặng yên như Gương thì bắt đầu chiếu sáng và Tánh hiển bày, cũng là lúc Đại Ngộ…

4-Như sương mù buổi sáng biến mất trong khí mỏng,
Chẳng đi đâu nhưng tan biến hết,
Những làn sóng ý niệm, xuất hiện trong Tâm, rồi tan biến,
Đó là lúc con ngộ ra Chân Tính của Tâm.

Sương mù là hơi nước có trong không khí, sau khi đọng lại thành những giọt nước trên cành cây ngọn cỏ, gặp ánh nắng mặt trời thì tự tan biến, trở về với không khí hoặc tiếp tục đọng lại thành nước, trả lại bầu trời trong. Làn sóng ý niệm hay vọng tưởng cũng vậy, xuất hiện trong Tâm rồi tan biến trở về Gốc Tâm. Lúc này Tâm tự nhìn thấu Tâm trong suốt không có một vật lặng yên như Gương, Tâm trở về Chân Tính của Tâm hay là Bản Thể Tâm cũng gọi là Tâm Bản Nhiên, bắt đầu chiếu sáng. Ngộ nhập ánh sáng này là ánh sáng Trí Tuệ Bát Nhã và vượt thoát luân hồi.

5-Hư Không thật chẳng có mầu chẳng có hình dạng
Nên chẳng nhuốm đen hoặc trắng;
Cũng như vậy, Tâm Bản Nhiên không sắc không tướng
Nên không thể là đen hay trắng.

6-Bóng tối vô tận chẳng có sức
Làm đen tối tim sáng mặt trời;
Cũng thế, những kiếp luân hồi vô tận chẳng có sức
Che lấp nổi sự trong sáng của Tâm Bản Nhiên.

7-Dù Hư Không được gọi là “trống không”,
Nhưng thực ra làm sao diễn tả;
Dù Tâm Bản Nhiên được gọi là “trong sáng”,
Nhưng đó chỉ là ngôn từ.
Như đã giải thích ở phần hai về “Tâm và Tánh”, lấy thí dụ Viên Ngọc Ma Ni để nói về Tánh, Ánh Sáng do Viên Ngọc chiếu ra để nói về Tâm. Con đường của Tâm đạt tới Tánh là con đường giác ngộ, như Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị : “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Tâm Bản Nhiên ở đây Tổ TILOPA muốn nói đến Tâm ở tận đầu nguồn Bản Thể của Tâm và Như Nhiên, có thể gọi đây là Tánh hay Viên Ngọc Ma Ni. Khi phân ra làm hai phần Thể và Dụng : Viên Ngọc Ma Ni hay Tánh là Thể, Ánh Sáng do Viên Ngọc chiếu ra hay Chân Tâm là Dụng, thì dễ hiểu và thuận lý hơn. Con đường Tâm từ Ngọn cho đến Gốc Tâm là Dụng, Gốc Tâm hay Chân Tâm lại chiếu ra cái Bóng của nó sinh ra càn khôn vũ trụ sum la vạn tượng hiện đầy trong Hư Không : “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Tâm cũng giống như một “Tàng Cây” to, có Gốc thì bất động, không sinh diệt… còn Ngọn như cành và lá thì động và sanh diệt. Ngay Gốc Tâm là cái cửa Vô Vi, vừa huốt khỏi mọi hình tướng của Tâm là Gốc Tâm hay Chân Tâm chính là cái Ánh Rõ hay Ánh Sáng của Viên Ngọc hay Mặt Trăng Thứ Hai hay cái Cửa Vô Vi này nhảy thẳng vào Tánh hay Viên Ngọc thì cái Rõ không còn mà là cái Trong rồi cái Không ! Tạm chia làm 3 lớp cửa là Cái Ánh Rõ, Cái Trong rồi Cái Không là tận cùng rốt ráo chính là Chân Như Bát Nhã. Tổ TILOPA gọi đây là Tâm Bản Nhiên là Bản Thể hay Chân Tánh của Tâm. Như vậy có thể gọi Tâm Bản Nhiên là Tánh, cũng giống như Tánh hay Tự Tánh : không sinh diệt, không màu sắc, không hình tướng, luôn luôn trong sáng. Cũng như Hư Không, nó rỗng rang, trống không, nhưng lại vi diệu, không làm sao diễn tả được. Những kiếp luân hồi vô tận không có sức che lấp nỗi sự trong sáng của nó. Tâm Bản Nhiên hay Tánh này lại biến hóa vô cùng, ở trong thân, ngoài thân, trùm khắp và bình đẳng hòa nhập trong tất cả Chúng Sanh cũng như Vạn Pháp và Hư Không. Ở trong thân gọi là Phật Tánh, Tự Tánh hay Tự Tâm. Dù cho vô số kiếp luân hồi có che lấp nó trong bóng tối Vô Minh dày đặc nhưng một khi nó được khơi dậy thì chiếu sáng khắp mười phương !

8-Tâm Bản Nhiên giống như Hư Không;
Nó bao trùm và ôm trọn mọi vật trong ánh mặt trời.
Hãy cứ yên lặng và thoải mái trong thanh thản hồn nhiên,
Hãy lắng im để âm thanh dội vang vang dội,
Hãy để Tâm con yên tịnh và theo dõi sự tận cùng của muôn thế giới.

9-Thân xác thật ra trống rỗng như cây sậy,
Và Tâm, như Hư Không thanh khiết, hoàn toàn không tư tưởng:
Hãy thảnh thơi trong thực tính mà chẳng buông bỏ hay kiểm soát
Tâm không đối tượng chính là Đại Thủ Ấn
Con hãy thực hành miên mật thích nghi, rồi con sẽ ngộ.

Hư Không trống rỗng là cái mà Thiền Sư để ý tới, nó là Chân Tâm (Mặt Trăng Thứ Hai, Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni) hay là Gốc Tánh (Mặt Trăng Thật, Viên Ngọc Ma Ni) tùy theo mức độ chứng ngộ của hành giả. Chưa chứng được cái Hư Không này thì Hư Không vẫn là Hư Không vẫn là Vọng Tưởng mặc dù thấy nó như vô tướng, bất động, trùm khắp và không sinh diệt.
Tổ Sư thứ 7 BÀ TU MẬT (Vasumitra) khai thị :
“Tâm đồng HƯ KHÔNG giới
  Thị đẳng HƯ KHÔNG PHÁP
  Chứng đắc HƯ KHÔNG thời
  Vô thị vô phi pháp”.

Tổ TILOPA so sánh Tâm Bản Nhiên cũng giống như Hư Không, nó bao trùm và ôm trọn mọi vật trong vũ trụ bao la. Hãy yên lặng và thoải mái trong thanh thản hồn nhiên, lắng im để âm thanh dội vang vang dội, để Tâm yên tịnh và theo dõi sự tận cùng của muôn thế giới thì tất cả từ từ mờ nhạt lặng chìm và mất dạng trong Hư Không. Thân xác cũng vậy, trống rỗng như cây sậy rồi cũng hòa nhập vào Hư Không. Và Tâm, như Hư Không thanh khiết, trống rỗng, hoàn toàn không tư tưởng : Tâm phi Tâm. Hãy thảnh thơi trong thực tính, chẳng buông bỏ hay kiểm soát. Lúc đó, Tâm không đối tượng chính là Đại Thủ Ấn. Thực hành miên mật thích nghi, rồi sẽ ngộ! Như vậy lời khai thị “mật truyền” này của Tổ TILOPA chẳng khác gì với Thiền Tông cả. Vua Trần Nhân Tông - Tổ Sư Thiền Trúc Lâm (Việt Nam) cũng từng khai thị :
“Cư trần lạc Đạo thả tùy duyên
  Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
  Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
  Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiên”.
(Ở đời vui Đạo, thả tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền !).

Thiền Sư Bổn Tịnh nói : “Tức Tâm là Phật, Không Tâm là Đạo” . Thiền Sư Hoàng Bá cũng khai thị : “Cúng dường mười phương Chư Phật không bằng cúng dường một Đạo Nhân Vô Tâm… Cái Bản Thể Như Như, bên trong như gỗ đá chẳng lay chẳng động, bên ngoài như Hư Không chẳng nghẽn chẳng ngại, vô năng sở, vô phương sở, vô tướng mạo, không được không mất…Dụ cho Tâm này, tức cái Tâm của Vô Tâm lìa tất cả tướng, chúng sanh và Chư Phật chẳng có khác biệt, hễ được Vô Tâm thì đến cứu cánh…” . Thiền Sư Đức Sơn cũng nói : “Vô Tâm nơi Sự, Vô Sự nơi Tâm”. “Vô Tâm” này cũng là “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng! Tuy nhiên Tâm này vô tu vô chứng vô sở đắc : “Tâm tự Vô Tâm”. Nếu đem Tâm làm cho “Vô Tâm” thì Tâm lại trở thành có, là vô tâm của phàm phu, không phải là “Vô Tâm” hay “Không Tâm” hay “Tâm Phi Tâm” của người chứng Đạo !

10-Sự trong sáng của Đại Thủ Ấn không thể hiển lộ
Trong Kinh sách hay những khảo luận siêu hình,
Về Mật chú, Bát Nhã Ba La Mật hay Tam Tạng Kinh Điển;
Sự trong sáng đã bị che phủ bởi ý niệm và tư tưởng.

11-Vì đóng khung trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật Nguyện đã bị tổn hại,
Nhưng khi chấm dứt hoạt động tâm trí thì mọi quan niệm cứng nhắc sẽ tan biến;
Khi những làn sóng biển là sự yên tịnh sâu thẳm của chính nó,
Khi Tâm không còn lang thang trong vô định, vô tưởng,
Thì chính Mật Nguyện kiên trì sẽ là ánh đèn soi sáng Tâm đen tối.

Đại Thủ Ấn hay Tâm Bản Nhiên tuy Rỗng không như Hư Không nhưng lại trong sáng và vi diệu. Nó không thể “hiển lộ” trong Kinh Sách hay những khảo luận siêu hình về Mật chú, Bát Nhã Ba La Mật hay Tam Tạng Kinh Điển. Nó chỉ hiển lộ trong Kinh Vô Tự không lời. Vì thật ra tất cả Kinh Điển chỉ là phương tiện để đạt tới cứu cánh, là “ngón tay” để chỉ “Mặt Trăng”! Học Kinh Điển là để có cái “Kiến Văn Giác Tri” hiểu được Lý Đạo. Hiểu rồi thì phải buông cái “Kiến Văn Giác Tri”. Nó sẽ là con dao hai lưỡi vừa làm sáng con mắt Đạo, vừa đâm mù con mắt Đạo. Những ý niệm và tư tưởng sinh ra từ cái Kiến Văn Giác tri, trở thành Vọng Thức trong sáu căn che mờ Tự Tánh ! Do đó dù có đọc hay tụng một ngàn quyển Kinh, rồi chấp vào văn tự chữ nghĩa làm cho niệm niệm sinh ra lấp đầy sáu căn, Đại Thủ Ấn không có chỗ để hiển bày. Dùng âm thanh đọc tụng cho thật nhiều tưởng rằng công phu, nhưng thật ra chỉ làm cho thần khẩu suy kiệt ; dùng sắc tướng cúng lạy tế lễ thật nhiều tưởng rằng được phước, nhưng thật ra chỉ làm cho thân căn mệt  mỏi mất công suông ! Cứ thảnh thơi và an định trong thanh tịnh hoặc nhìn chăm chú thấu suốt vào bầu trời trống rỗng nhãn quan chấm dứt, nhãn thức không còn cho đến khi Tâm tự nhìn thấu Tâm, không còn Vọng Tưởng thì Sóng trở về Nước, là lúc Đại Ngộ. Cái gọi là “công phu” này của Tổ TILOPA, chẳng có gì là công phu cả, vì nó rất “nhàn”, nhưng lại đạt kết quả ! Nó giống cái Vô Vi của Lão Tử, nghĩa là “Vô mà Vi, vô sở bất Vi” (không làm mà làm, không có chỗ nào mà không làm), và vượt khỏi cái Vô Vi này, đạt tới cái cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác là thâm nhập vào cái Hư Không, tức là Đại Thủ Ấn. Điều này cũng chẳng khác với cái gọi là “công phu” của Tuệ Trung Thượng Sĩ :

                            “Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên,
                              Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên.
                              Tự thị quyện thời Tâm tự tức,
                              Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền”.
                             (Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên,
                              Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên.
                              Lúc mệt mỏi rồi Tâm tự tắt,
                              Cần chi niệm Phật với cầu Thiền).

Tổ TILOPA có cái thấy chẳng khác Thiền Tông : Vì đóng khung trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật Nguyện bị tổn hại ; nhưng khi chấm dứt hoạt động tâm trí thì mọi quan niệm cứng nhắc sẽ tan biến ; khi những làn sóng biển là sự yên tịnh sâu thẳm của chính nó; khi Tâm không còn lang thang trong vô định, vô tưởng, thì chính Mật Nguyện kiên trì sẽ là ánh đèn soi sáng Tâm đen tối! Thái Tử Chiêu Minh, chia Kinh ra đủ loại, phân giải rõ ràng, biết bao là công phu. Lương Võ Đế, tạo phước xây chùa, độ Tăng, nhưng ngã sở, ngã kiến lại không đoạn được. Cả hai Cha Con đều chú trọng về hình thức và văn tự suông, nhưng chẳng được kết quả gì, thật là uổng công suông. Thi hào Nguyễn Du, đi Sứ nước Trung Hoa, hành trang duy nhất là quyển Kinh Kim Cang, đọc Kinh suốt cuộc hành trình dài ngàn dặm. Ông ngừng đọc Kinh, ghé lại đất Lương thuở xưa thăm đài phân Kinh của Thái Tử Chiêu Minh, Đài đã hoang tàn, chỉ còn trụ đá với vài vết văn tự. Trụ đá còn đấy, nhưng người xưa thì ở đâu và Đạo ở đâu mà cả hai Cha Con Lương Võ Đế suốt cả cuộc đời tìm không ra? Cuối cùng, Nguyễn Du đã ngộ và Ông hiểu ra rằng : “Kinh Vô Tự” mới là “Chân Kinh” !

“Bờ bên kia có Ma Ha Ca Diếp
  Một sát na Tâm nhiếp cả Đạo mầu
“Niêm Hoa Vi Tiếu”, vạn Pháp gồm thâu
  Kinh Vô Tự, một bầu Chân Không rộng”.
                                                  (Ngộ Thâm).
12-Hãy dẹp bỏ tính thông minh tự mãn, từ bỏ những nguyên lý
giáo điều,
Thì chân tính của mọi truyền thống và kinh sách sẽ được hiển lộ.
Khi hòa nhập trong Đại Thủ Ấn, là lúc con thoát khỏi ngục tù của luân hồi;
Thênh thang trong Đại Thủ Ấn, tội lỗi và tiêu cực tính sẽ tiêu tan;
Khi là thầy của Đại Thủ Ấn, con sẽ là ánh sáng của Kinh Điển.

13-Kẻ nào ngụp lặn trong vô minh là khinh thường Đại Thủ Ấn,
Họ chẳng biết gì ngoài vùng vẫy trong biển luân hồi khổ đau.
Hãy thương xót những ai đau khổ hằng khao khát!
Luôn chán khổ và mong giải thoát, hãy trung thành với sư phụ,
Khi ơn phước của Ngài chạm đến tim con thì Tâm được giải phóng.

14-Con ơi! hãy lắng nghe với lòng an lạc!
Dính mắc vào luân hồi là vô ích; đó là cội nguồn mọi khắc khoải
lo âu.
Vì say đắm trần gian là vô nghĩa, nên hãy kiếm tìm sự thật !          

15-Vượt thoát khỏi tâm nhị nguyên là cái nhìn Tối thượng ;
Tâm tịch tĩnh lặng yên là Thiền tối thượng;
Tự nhiên như nhiên là pháp Hành tối thượng;
Rồi khi mọi hy vọng và sợ hãi không còn là thành quả đã đạt.

Thật ra tất cả những cái biết gọi là “Tri Thức”, dù là thông minh xuất chúng như những nhà Bác Học ở cõi Thế Gian hay các cõi Trời thì vẫn còn bị hạn chế hay điên đảo bởi Nghiệp Lực. Rốt ráo chỉ là Thế Gian Trí, cao hay thấp tùy theo Biệt Nghiệp và bị Nghiệp Lực che mờ. Nếu tự mãn hay cố chấp vào nó mà cho là Chân Lý với cái Kiến Văn Giác Tri của phàm phu thì con mắt Đạo sẽ bị mù. Vì đó là cái thấy hay cái Tri Thức bị khúc xạ bởi “Nghiệp Tướng” theo từng loài : Tướng “Người”, Tướng “Trời”, Tướng “A-Tu-La”, Tướng “Ngạ Quỹ”,  Tướng “Súc Sanh”… Mỗi cõi đều có cái Chân Lý tương đối riêng của nó, nhưng tất cả chỉ nằm trong Bóng Mê, giống như Chiêm Bao, thức dậy rồi thì tất cả đều không có ! Còn những nguyên lý giáo điều chỉ trói buộc con người làm kẻ nô lệ tâm linh hay nô lệ Thần Quyền, không có con đường Giải Thoát. Đạo Phật không có Giáo Điều hay Giáo Luật để ràng buộc hay cột trói mà chỉ có  Giới Luật để “Ly” với Pháp Trần, không bị Pháp Trần trói buộc, chướng ngại trên con đường Giải Thoát. Như thế, buông đi cái Ngã Kiến, Ngã Sở, Ngã Chấp, “Ly” Pháp Trần thì Chân Tánh hiển bày. Trong giấc Chiêm Bao, vì Mê nên tưởng là thật với thân thật thế giới thật cố bám díu vào Pháp Trần Chiêm Bao với ngã ái ngã dục ngã kiến ngã sở… thành “Bệnh” bị Vô Minh trói buộc trong Chiêm Bao, không thể “thức dậy ” thoát khỏi ngục tù hay vô số kiếp luân hồi trong giấc Chiêm Bao, thoát khỏi cái “Thân Giả Tạm” chỉ là cái Bóng Ảo trong Chiêm Bao, hòa nhập vào cái “Thân Thật” là Pháp Thân, Chân Tánh hay Tự Tánh… tức là Đại Thủ Ấn !

“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
  Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
  Tam giới mang mang Tâm liễu liễu
  Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”.

(Xoay mình một ném vượt ra lồng
  Muôn sự đều không ,nhập mắt không
  Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
  Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
                                   (Tuệ Trung Thượng Sĩ). 
        Thênh thang trong cái Không hay Đại Thủ Ấn thì tội lỗi và những tiêu cực với sáu ngã luân hồi trong giấc Chiêm Bao đều tiêu tan:

“Mộng lý minh minh hữu lục thú
  Giác hậu không không vô đại thiên”.      
                               (Thiền Sư Huyền Giác). 
(Trong mộng lao xao bày sáu nẻo
  Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba nghìn).
         Khi là thầy của Đại Thủ Ấn, thì  ánh sáng của Kinh Điển sẽ hiển bày :

“Tông diệc thông ,Thuyết diệc thông
Định huệ viên minh bất trệ không
Phi đãn ngã  kim độc đạt liễu
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng”.(Th.S Huyền Giác).

(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông
Định huệ sáng tròn chẳng trệ không
Nào phải mình ta riêng đạt đấy
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng).  

                 Còn  kẻ nào khinh thường Đại Thủ Ấn hay cái Không này, mãi mê say đắm trần gian không lo tìm kiếm sự thật, ngụp lặn trong vô minh vô số kiếp; thật đáng thương, họ chẳng biết gì ngoài vùng vẫy trong biển luân hồi đau khổ !
‘‘Vượt thoát khỏi tâm nhị nguyên là cái nhìn tối thượng”: bởi vì “Một là tất cả, tất cả là Một”. Chỉ cần quên đi “Tâm nhị nguyên” là có thể bao dung được tất cả Pháp Giới. Sự đối lập giữa Hữu và Vô, Sắc và Không, Mê và Ngộ, Phàm và Thánh, Phật và Chúng Sanh, Phiền Não và Bồ Đề, Sống và Chết, Nhơ và Sạch… chỉ là sự đối lập giả tạo! Chân lý chỉ có một, bởi vì “Huyễn Hóa” mà phân thành hai thành Nhị Kiến. Nhơ Sạch chỉ là giả danh, Sắc Không là giả tướng, Sống Chết chỉ là một đợt sóng chìm nổi trong vô định… Tâm “nhất nguyên” là tổng giai không bao trùm tất cả Pháp Giới, không có sống chết hay sinh tử, là Niết Bàn thanh tịnh, như Sóng trở về với Nước!

“Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông
  Hữu hữu, vô vô, tất cánh đồng
  Phiền não, Bồ Đề nguyên bất nhị
  Chân như, vọng niệm, tổng giai không”.
                             (Tuệ Trung Thượng Sĩ).
“Tâm tịch tĩnh lặng yên là Thiền tối thượng’’: Tâm tịch tĩnh lặng yên thì cũng giống như Mặt Nước lặng yên như Gương bắt đầu soi chiếu cả Bầu Trời vô định, mọi Chân Lý hiển bày chân thật không chướng ngại:

“Tâm kính minh, giám vô ngại
   Quách nhiên oánh triệt châu sa giới
   Vạn tượng sum la ảnh hiện trung
   Nhất lỏa Viên Quang phi nội ngoại”.
                                      (Thiền Sư Huyền Giác).
(Gương Tâm rõ, soi chẳng ngại
  Suốt thông chiếu khắp hà sa giới
  Muôn tượng um tùm, ảnh hiện trong
  Một điểm Viên Quang không nội ngoại). 

“Tự nhiên như nhiên là pháp Hành tối thượng’’: Bởi vì “Bình thường Tâm thị Đạo”. Không cần phải chú trọng quá nhiều về hình thức như tế lễ cúng lạy, nặng nề về trì giới nhẫn nhục thái quá… giữ trung đạo, tất cả Pháp đều tự nhiên như nhiên, là “pháp Hành tối thượng” đạt thành quả Giác Ngộ.

16-Tâm trong trẻo tự nhiên ở bên kia bờ Tâm ảnh:
Hãy đi đường vô-đường để theo đường của Chư Phật;
Hãy nương theo vô-pháp để đạt đại ngộ.

Phật dạy: “Tâm là Tông chỉ, cửa Không là của Pháp”. Đi huốt con đường Tâm từ ngọn cho tới Gốc, chỉ chú ý tới cái Gốc, nơi mà Tâm không còn là Tâm: Tâm phi Tâm, trong trẻo tự nhiên như nhiên, tướng mà vô tướng, vật mà phi vật, pháp  mà vô pháp…đạt tới cái Không rốt ráo của Chư Phật. Khi đó là đi con đường vô-đường để theo đường của Chư Phật, nương theo pháp mà vô-pháp để đạt đại ngộ như Đức Phật từng khai thị cho Tổ Ca Diếp:


“Pháp bổn Pháp Vô-Pháp
  Vô-Pháp Pháp diệc Pháp
  Kim phó vô Pháp thời
  Pháp Pháp hà tằng Pháp”.

  (Pháp, gốc Pháp không phải Pháp 
  Pháp không Pháp cũng là Pháp
  Nay khi trao cái không Pháp
                                   Mọi Pháp đâu từng là Pháp).

17-Con ơi! Hãy lắng nghe với lòng thương cảm!
Con hãy nhìn sâu vào những tình trạng khó hiểu buồn đau trong đời,
Chẳng có gì tồn tại, chúng huyễn ảo như mơ,
Những ảo tưởng vô nghĩa chỉ mang lại buồn nản và nhàm chán
Con hãy quay đi và buông bỏ những đeo đuổi trần gian.
18-Hãy cắt bỏ những dính mắc vào quê hương và bè bạn
Mà thiền định đơn độc trong rừng sâu núi thẳm;
Hãy ở đó trong trạng thái vô-thiền
Và vô-chứng-đắc thì con sẽ ngộ ra Đại Thủ Ấn.
                  Tất cả những hạnh phúc có trong cuộc đời như sự giàu sang, tiền của, nhà cửa, sắc dục, quyền lực…cho đến những buồn đau phiền não như chiến tranh, khủng bố, bệnh tật, đói khổ, chết chóc…đều là huyễn ảo như mơ. Chúng chỉ là những ảo tưởng vô nghĩa chỉ mang lại sự buồn nản và nhàm chán. Nếu cứ đeo đuổi dính mắc sẽ tạo thêm cái Nhân cho Nghiệp Báo Luân Hồi thêm nặng nề. Quê hương và bè bạn cũng rất quý, nhưng đó chỉ là Thế Đạo hoặc Nhân Đạo,  Phật Đạo phải vượt lên cao để đạt đến Bờ Giác. Khi đó, lấy lòng Từ mà độ khắp chúng sanh không phân biệt và không biên giới. Do đó, phải “Ly” Pháp Trần mà thực chất chỉ là mộng tưởng huyễn ảo đầy phiền não trói buộc; về với Pháp Không không Pháp tự do thênh thang với Chân Tánh. Tìm đến nơi thanh tịnh hoặc chốn rừng sâu núi thẳm để thiền định đơn độc, sống tự nhiên như nhiên trong trạng thái thiền mà vô thiền, vô-chứng-đắc thì sẽ ngộ ra Đại Thủ Ấn.

“Thường độc hành, thường độc bộ
  Ðạt giả đồng du Niết-Bàn lộ”.
                                (ThS. Huyền Giác).
19-Một cây trổ ra đầy cành và lá
Nhưng khi rễ bị cắt thì chúng sẽ héo tàn;
Cũng thế, khi gốc rễ của Tâm bị cắt đứt,
Thì cành lá của cây luân hồi sẽ rụi tàn.

Như đã diễn tả ở Phần II Tâm và Tánh, Tâm giống như một tàng cây to với “Con đường Giải Thoát ” chia làm hai phần Vọng Tâm và Chân Tâm tương ưng với Ngọn Tâm và Gốc Tâm : Ngọn Tâm thì sinh diệt, luân hồi ; còn Gốc Tâm thì không sinh diệt, là cái cửa Vô Vi để nhập vào Tánh. Ở đây Tổ TILOPA chỉ chú ý tới phần Vọng Tâm diễn tả Tâm là : “tàng cây luân hồi” trổ ra đầy cành và lá, khi rễ bị cắt thì chúng sẽ héo tàn. Gốc rễ ở đây là Vọng Thức, là Pháp Trần. Khi gốc rễ (tức Vọng Thức hay Pháp Trần) của Tâm bị cắt đứt, thì cành lá của cây luân hồi sẽ rụi tàn, là con đường Giải Thoát.

20-Chỉ một ngọn đèn có thể xóa tan đen tối của hàng ngàn kiếp; 
Thì chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng
Cũng thanh tẩy được nghiệp chướng và vô minh.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Chỉ cần Tâm người “trực chỉ” thấy Tánh là đạt đạo Giải Thoát. Thấy Tánh  là đạt tới Tâm Không. Là chỗ rốt ráo Bản Thể của Tâm hay Tâm Bản Nhiên. Đối với Thiền Tông, trong một sát na đốn ngộ, chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng, cũng thanh tẩy được nghiệp chướng và vô minh xóa tan đen tối của vô số kiếp luân hồi:
“Chứng “Thực Tướng” vô nhân pháp,
   Sát na diệt khước A-Tỳ nghiệp”.
(Chứng Thực Tướng không nhân pháp,
  Sát na rũ sạch A-Tỳ nghiệp).
                                     (Th.S Huyền Giác).
             Chẳng những chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng xóa tan đen tối của hàng ngàn kiếp mà còn soi sáng Trí Tuệ, bao trùm cả Pháp Giới, vượt thoát  luân  hồi, đạt đến Niết Bàn Vô Sanh:

“Tứ Trí ba vô tận                         
   Bát Thức hữu Thần Uy             
                                    Tâm đăng minh Pháp Giới       
                                    Tức thử thị Bồ Đề”.    (Bồ Đề Đạt Ma).  

   (Bốn Trí cuồn cuộn sóng
   Tám thức lộ thần uy
   Ðèn Tâm soi Pháp Giới
   Ðó tức là Bồ Đề ). 

             Chỉ cần ở Tâm người, không cần phải cầu bên ngoài, chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng, là có cả một mùa  Xuân vĩnh cửu với đầy đủ hoa thơm cỏ lạ :
“Học giả phân phân bất nại hà,
   Đồ tương linh đích  khổ tương ma.
   Báo quân hưu ỷ tha môn hộ
   Nhất điểm xuân quang  xứ xứ hoa’’ .

   (Học Đạo mênh mang ai có hay,
    Gạch đem mài gạch nhọc nhằn thay,
    Của Người anh hãy thôi nương tựa,
    Một ánh Xuân về, hoa đó đây).
                       (Tuệ Trung Thượng Sĩ) .               
21-Con ơi! Hãy lắng nghe trong an lạc!
Sự thật bên kia bờ Tâm thức không thể hấp thụ bởi Tâm kiên cố;
Ý nghĩa của vô-hành không thể hiểu được trong đam mê tạo tác;
Để thông suốt ý nghĩa của vô-hành và bên kia bờ Tâm tưởng,
Con hãy cắt bỏ mọi gốc rễ của Tâm và an định trong sự tỉnh thức rỗng rang.
          
22-Để dòng ô nhiễm của niệm tưởng được thanh tẩy;
Con hãy tránh mọi vọng tưởng dù tích cực hay tiêu cực
Hãy để chúng xuất hiện như chúng là:
Thế giới hiện tượng không thêm không bớt, chính là Đại Thủ Ấn.

23-Nền tảng vô sinh thường hằng làm tan rã những khát vọng và   huyễn tưởng của con:                           
Đừng tự cao hay tính toán mà hãy an định trong bản tính vô sinh
Và hãy để những ý niệm của con và vũ trụ tan rã.

             Bên kia bờ Tâm thức không thể hấp thụ bởi Tâm kiên cố với những ý niệm, khái niệm, hay tư tưởng của pháp thế gian....là những vọng tưởng dù tích cực hay tiêu cực. Cố chấp vào nó sẽ làm cho con mắt Đạo bị mù. Phải vượt qua khỏi những vọng tưởng hay vọng thức này để đạt tới Vô-Vi cũng là Vô-Hành. Ý nghĩa của Vô-Hành không thể hiểu được trong đam mê tạo tác với những ý niệm hay vọng thức của Pháp Trần. Do đó phải cắt bỏ mọi gốc rễ của Tâm là Vọng Tâm hay Vọng thức và an định trong sự tỉnh thức rỗng rang.  Vô-Hành cũng tương đồng với Vô-Tác, Vô-Vi, Vô-Niệm, Vô-Tâm, Vô Pháp, tất cả đều vô sở trụ… ngộ nhập cái Không rốt ráo, là Pháp Thân vi diệu:


Tuyệt gốc Vô-Vi liễu Tánh Chân
Hữu-Vi vọng động lạc thức thần
Trùng trùng duyên khởi hà sa giới
Kiếp kiếp trầm luân vạn lý trần
Vô-niệm, Vô-Tâm, vô sở trụ
Vô-Hành, Vô-Pháp diệc Vô-Nhân
Quán Không, Tự Tánh phi nhất vật
Phi Phật, phi Phàm, thị PHÁP THÂN.
(Vô Tác - Ngộ Thâm). 
Một cách đơn giản Vô-Hành hay Vô-Tác thì Sóng trở về với Nước lặng yên như Gương là Tâm Bản Nhiên bắt đầu phản chiếu và soi thấu Bầu Trời trong vô tận. Vô-Hành hay Vô-Tác thì từ nguyên tử cho đến vũ trụ đều tan rã trở về Không: “Sắc tức thị Không”, trở về với bản thể như nhiên thường hằng tức là Đại Thủ Ấn. Nền tảng vô sinh thường hằng làm tan rã những khát vọng và  huyễn tưởng. Do đó phải an định trong bản tính vô sinh; không cố chấp hay dính mắc vào ngã kiến, ngã sỡ, buông niệm ly trần để những ý niệm hay vọng tưởng và vũ trụ của thế gian mê tan rã.
24-Tri kiến cao nhất sẽ mở ra các cửa;
Thiền định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận ;
Pháp hành tối thượng là kiên trì mà không bị kiềm chế;
Và sự thành tựu cao nhất là sự hiện hữu bình thường không có hy
vọng hay sợ hãi.
Tri kiến cao nhất sẽ mở ra các cửa, nhưng để vào được cửa thì phải buông cả cái tri kiến này “Vô Tri mà Tri, Vô sở bất Tri” như Tổ thứ 25 Bà-Xá-Tư-Đa (Basiasita) khai thị:

“Thánh nhân thuyết tri kiến,
   Đương cảnh vô thị phi.
   Ngã kim ngộ kỳ Tánh
   Vô Đạo diệc vô Lý”.

  (Thánh nhân nói tri kiến,
   Ngay cảnh không phải quấy.
   Nay Ta ngộ Tánh ấy,
   Không Đạo cũng không Lý).

              Thiền Định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận ,vì khi đó hòa nhập với tất cả Pháp Giới trùm khắp; từ hạt bụi hạt nguyên tử cho đến vũ trụ bao la, không có chỗ nào mà chẳng thấy. Chân tướng của tất cả Pháp Giới thoát khỏi bức màn Vô Minh, lộ toàn thân trong ánh sáng vi diệu của Tâm Bản Nhiên.
Pháp Hành tối thượng là kiên trì mà không bị kiềm chế, nghĩa là vẫn kiên trì nơi Hành mà Vô-Hành, Vô-Tác, Vô-Niệm, Vô-Tâm… chẳng bị ràng buộc cột trói hay kiềm chế. Ngay nơi động mà tịnh, ngay nơi vật mà phi vật, ngay nơi tướng mà phi tướng, ngay nơi niệm mà lìa niệm, ngay nơi cảnh mà Tâm không dính mắc.
Sự thành tựu cao nhất là sự hiện hữu bình thường không có hy vọng hay sợ hãi. Tâm bình thường là Đạo và Đạo thì ngay trước mắt nơi nào cũng có. Mặc áo, ăn cơm, rửa bát, bửa củi, gánh nước, đi đứng, ngủ nghỉ, nằm ngồi hay đang làm việc… đều là Đạo; ngọn cỏ, tàng cây, đám mây, sơn hà đại địa cho đến hạt bụi hạt nguyên tử hay Hư Không bao la… đều là Đạo! Vì tất cả đều đang “niệm” rồi chấp niệm nên niệm niệm duyên khởi mà hiện hữu và có tướng sinh diệt. Sự hiện hữu bình thường không có hy vọng hay sợ hãi, là ngay nơi niệm mà lìa niệm,  ngay nơi động mà lìa động, ngay nơi cảnh mà lìa cảnh, ngay nơi vật mà lìa vật,  ngay nơi pháp trần mà lìa pháp trần, đạt tới Vô-Niệm, Vô-Hành, Vô-Tâm… là sự thành tựu cao nhất! Mặc dù tất cả Pháp Trần đang niệm mà hiện hữu, có ngã có nhân, có năng có sở, trở thành nhị kiến của thế gian mê, nhưng với sự hiện hữu bình thường của thế gian mê mà trong đó tất cả đều “Ly’’ không ngã nhân vô năng sở trở về cái “Một” hay “Chơn Nhất” thì niệm Vô Minh sinh ra Pháp Trần tịch diệt. Khi đó tất cả Pháp Trần đều niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, không còn là niệm Vô Minh mà là cái niệm Chân Như của Tự Tánh, nơi đó Phật cũng Phi, Pháp cũng Phi mà Tăng cũng Phi… là cái Không rốt ráo vi diệu, là Đại Thủ Ấn! Khi đó mọi sự  hiện hữu bình thường đều là Đạo: núi sông là núi sông, khói non Lô là khói non Lô, sóng Chiết Giang là sóng Chiết Giang…là cái nhìn với “Tri Kiến Phật” hay “Pháp nhĩ Như Thị”.

25-Lúc đầu, Nghiệp Lực của con như dòng sông đổ vào
thung lung  dốc;
Rồi nhẹ nhàng lang thang như khúc giữa của sông Hằng;
Và cuối cùng, như dòng sông trở thành một với đại dương,
Nơi bất nhị, mẹ và con là một.

                 Thiền Định tối thượng thấy rõ Nghiệp, diệt trừ được Nghiệp. Lúc đầu Nghiệp Lực hung hản như dòng sông đổ vào thung lủng  dốc. Khi đến dòng sông lớn như sông Hằng thì chảy nhẹ nhàng êm dịu .Và khi ra được đại dương thì hòa tan vào biển nước lặng yên bao la vô tận, con và mẹ gặp nhau, con hòa cùng mẹ ! Nghiệp dù có nặng nề bao nhiêu do sự tích lũy từ vô số kiếp, nhưng so với Biển Tánh vô biên thì không đáng kể, không còn hiệu lực và bị thuần hóa thành không. Cũng như đem một ngàn tấn muối hòa cùng Biển Lớn vô biên, thì Tánh Mặn của muối không còn, bị Biển Lớn thuần hóa thành không. Nghiệp cũng vậy, khi hòa tan vào Biển Tánh thì không còn tác dụng, chuyển hóa thành không. Thiền Định tối thượng ngộ nhập Đại Thủ Ấn cũng là Biển Tánh vô biên, là đắc Đạo và khi đó Nghiệp Chướng không còn, đạt Niết Bàn Vô Sanh. Cũng như Chiêm Bao khi “thức dậy”, tất cả Nghiệp Chướng dù có nặng nề với vô số kiếp trong Địa Ngục A Tỳ trong thế giới Chiêm Bao đều dứt sạch, không để lại dấu vết khi “thức dậy”  mà hòa nhập với cái Thân Thật là Pháp Thân, là Biển Tánh, cái Không hay Đại Thủ Ấn ; nơi bất nhị, mẹ và con là một ! 

26-Nếu Tâm con u tối không thể thực hành lời dạy bảo này,
Hãy giữ hơi thở tự nhiên và tống ra nhựa sống của nhận thức,
Hãy tập nhìn chăm chú - phương pháp tu luyện nhất Tâm,
Hãy kiên trì kỷ luật đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức.  

           Nếu những ai Tâm còn u tối  không thể thực hành lời dạy bảo này. Tổ TILOPA còn có phương pháp tu luyện nhất Tâm là tập nhìn chăm chú để xóa tan vọng thức hay vọng tưởng, giữ hơi thở tự nhiên không cột niệm, kiên trì kỷ luật đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức.

27-Khi thực hành, thì tính giác của đại lạc và không  tính sẽ thức dậy:
Được hợp nhất trong ơn phước của tuệ giác và phương tiện,
Sẽ từ từ chảy xuống, dừng lại rồi ngược về Tâm Bồ Đề,
Nối kết với cội nguồn, rồi lan tỏa khắp châu thân.
Nếu con không còn tham ái và bám chấp thì tính giác sẽ khơi dậy.

28-Con sẽ trường thọ và trẻ mãi như mặt trăng tròn đầy,
Luôn rạng rỡ và trong sáng, năng lực như sư tử,
Con sẽ mau thành tựu sức mạnh trần gian và đại giác ngộ.
Nguyện cho lời chỉ dạy cốt tủy này về Đại Thủ Ấn
Sẽ tồn tại mãi mãi trong tim những chúng sinh may mắn.

             Thực hành phương pháp tu luyện nhất Tâm bằng cách tập nhìn chăm chú tập trung cả sáu căn, kiên trì kỷ luật cho đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức. Khi đó vọng tưởng không còn thì tính giác của đại lạc và không  tính sẽ thức dậy hợp nhất trong “Định” sinh tuệ giác và phương tiện, sẽ từ từ chảy xuống dừng lại rồi ngược về Tâm Bồ Đề , tại nơi đây tức Tâm là Phật  nối kết với cội nguồn Phật Tánh rồi lan tỏa khắp châu thân khắp cả sáu căn, cả sáu căn là Tâm Bổ Đề, là sáu Ban Thần Dụng… Khi đó Phật Tánh hiển bày, thành tựu sức mạnh trần gian và đại giác ngộ, hòa nhập với tất cả Pháp Giới bình đẳng là cái Như cái Một hay Chơn Nhất, trở về cái trong suốt rỗng rang trùm khắp như Hư Không, tức là Đại Thủ Ấn chẳng khác với Thiền Tông!
Tóm lại, Đại Thủ Ấn mà Sơ Tổ TILOPA “mật truyền” cho Nhị Tổ NAROPA chẳng khác gì lời khai thị của Đức Phật Thích Ca: “Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp” hay của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Khi “Tâm tự nhìn thấu Tâm”,  chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt… là lúc Đại Ngộ theo cách của Tổ TILOPA thì chẳng khác với cái gọi là “trực chỉ nhân Tâm” của Tổ Đạt Ma, Tâm tự “Vô Tâm” của Thiền Sư Hoàng Bá, cái lưỡi kiếm “Vô” của Triệu Châu, cái cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác hay cửa “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng… Con đường Giải Thoát đó chẳng khác với con đường của Đức Phật Thích Ca đã dạy là con đường “vô đường”, tức là cái Không trùm khắp, ở ngay trước mặt, nơi nào cũng có; Pháp mà “vô pháp” không chấp dính pháp trần; hành mà “vô hành” vô tác, tự nhiên như nhiên, không đam mê tạo tác, mà vẫn an định nơi cái Không rỗng suốt; thiền mà “vô thiền” vô sở đắc với Tâm tĩnh tịch lặng yên…Cái rốt ráo mà Sơ Tổ TILOPA “mật truyền” cho Nhị Tổ NAROPA là Thiền định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận đạt đến Vô Vi là ngộ nhập Đại Thủ Ấn cũng chính là cái Không, Biển Tánh hay Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Nếu không thực hiện được những điều này, Tổ TILOPA cũng có phương pháp thực hành tu luyện nhất Tâm cho đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức và khi đó Tánh Giác của đại lạc và Không  Tánh sẽ thức dậy. Như vậy, nhất Tâm để đạt Tánh Giác của đại lạc và Không Tánh tức là đạt đến “Vô Tâm” hay Phi Tâm để thấy Tánh ngộ nhập vào Không hay Ma Ha Bát Nhã, là Kiếm Thuật của Thiền Sư Hoàng Bá… chẳng khác với Thiền Tông ! 

Như vậy thì đâu đâu cũng là Như, cái Một hay Chơn Nhất. Đâu đâu cũng là Cực Lạc, Bát Nhã hay Niết Bàn. Đâu đâu cũng là Phật, Tánh, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà, Pháp Thân, Như Lai, cái Không hay là Đại Thủ Ấn …Duy nhất chỉ là cái Đạo Giác Ngộ để diệt khổ giải thoát chúng sanh trong sinh tử luân hồi, không phải chỉ của Phật Thích Ca, Phật A-Di-Đà mà của Vô Lượng Phật khắp mười phương. Nói ngắn gọn là cái Đạo Giác Ngộ của Phật. Nhưng chữ Phật đã có nghĩa là người Giác Ngộ, do đó nên bỏ luôn chữ Phật hay Đạo Phật, chỉ gọi là “Đạo Giác Ngộ” hay “Đạo Giải Thoát”. Như vậy tất cả chúng sanh không phân biệt Tôn Giáo cùng có chung một mục đích “Giác Ngộ” là chấm dứt phiền não, thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi trở về Căn Nhà Xưa là Căn Nhà “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” hay Niết Bàn Cực Lạc hay là Đại Thủ Ấn … đều có thể tham cứu “Đạo Giác Ngộ” để tìm Chân Lý Giải Thoát và đạt được Giác Ngộ Giải Thoát!

Còn việc cố chấp tranh cải về thời Mạt Pháp hay Chánh Pháp thì ngay thời Lục Tổ Huệ Năng và Thiền Sư Huyền Giác đã là thời Mạt Pháp, nhưng vẫn có vô số người Ngộ Đạo: “Hậu nhân đắc Đạo hà cùng số”. Thế gian biện luận rằng: Thời Mạt Pháp chỉ có thể phải nương tựa vào “Tha Lực” bên ngoài, không nên Tu Thiền hay Tự Tu Chứng dù là với Chánh Pháp của Phật Thích Ca. Khi đó Thiền Sư Huyền Giác khuyên hành giả:


“Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền
  Định huệ viên minh chung bất thất
  Nhật khả lãnh nguyệt khả nhiệt
  Chúng ma bất năng hoại chân thuyết
  Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ
  Thùy kiến đường lang năng cự triệt?”

  (Ví phỏng thiết luân trên đầu chuyển
  Định huệ sáng tròn luôn chẳng biến
  Nguyệt dầu thành lửa, nhật thành băng
  Ma nào phá được chân thuyết hiện?
  Xe voi dốc ngược vững đường lên
  Sức mấy bọ trời ngăn bước tiến?).

Đạo Lý của Đức Phật và những lời khai thị của Tổ và Thiền Sư lắm lúc quá cao siêu khó hiểu. Tuy nhiên Phật, Tổ và Thiền Sư có giảng giải rõ ràng và hành giả cũng phải quán chiếu, tư duy thì trí tuệ mới phát triển được (Văn Tư Tu). Thời xa xưa đã có biết bao nhiều người Ngộ Đạo cũng nhờ cái siêu việt khó hiểu này, nếu quá dễ Con Người sẽ sinh lười biếng suy nghĩ và Bộ Óc loài người với Bộ Gene thông minh sẽ suy thoái trong những thế hệ mai sau… Nhà Toán Học Pascal có câu nói: “Con Người là Cây Sậy biết suy nghĩ”. Tuy Con Người rất yếu đuối như Cây Sậy, thể lực thua xa các loài dã thú như voi, cọp, beo, gấu… thế mà Cây Sậy yếu đuối kia lại làm Chúa Tể cả sơn lâm và thống trị luôn Quả Địa Cầu vượt hết tất cả loài cầm thú khác dù có sức mạnh hơn con người. Khi một đứa trẻ mới ra đời, nó còn rất ngây ngô chưa hiểu biết điều gì. Phải tập đi, tập nói rồi học hành. Nhưng vài chục năm sau nó sẽ “đi đôi giày bảy dặm”, trở thành một chuyên gia lỗi lạc, một chính khách lưu loát, một nhà Khoa Học đại tài… Chẳng lẽ nó cứ phải tập đi mãi và học đánh vần ABC suốt cuộc đời! Trường học cũng như trường đời hay trường Đạo phải có ngày lên lớp và thi đậu thành nhân, thành quả. Lúc đầu thì học cái dễ, từ từ lên cao, không đứng yên một chỗ. Nguyên lý của vũ trụ là “Dịch” tức là di chuyển, hướng về cái khó, cái lạ, cái bí mật để khám phá vũ trụ cũng như đời sống Tâm Linh. Đạo của Đức Phật Thích Ca đi bằng đôi chân vững chắc: Trí Tuệ và Từ Bi luôn luôn thích ứng với mọi thời đại. Đôi chân này còn siêu việt hơn đôi giày bảy dặm của Thế Gian, nó sẽ phóng cao lên giữa Hư Không, nhảy qua khỏi “đầu sào trăm trượng”, vượt qua “cửa Vô Vi”, nhập vào cái “Không” giẫm nát cả ba ngàn thế giới, không phải chỉ mãi mê trong Vô Minh lo làm ông chủ nhất thời sắp khánh tận với biết bao nhiêu nợ nần Nghiệp Chướng, càng lo làm ăn lại càng thua lỗ (ý nói lo làm giàu bất chánh, sát hại chúng sanh, nói dối lừa đảo… tuy có nhiều tiền của giàu sang, nhưng lại thua lỗ là khi chết không mang theo được, chỉ mang cái nợ là cái Nghiệp ác đã tạo tác đi vào ba đường ác là Địa Ngục, Ngạ Quỹ, Súc Sanh) trên cái cõi Ta Bà đầy “ngũ trược” chịu bao phiền não: sinh, lão, bệnh, tử trong cái cảnh luân hồi bất đắc dĩ này! Là Phật Con với hạt giống Phật Tánh sẵn có thì phải noi gương Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo, phải là Sư Tử, là Voi lớn, không theo dấu chân Thỏ như lời khuyên của Thiền Sư Huyền Giác:

“Đại Tượng bất du ư Thố kính
  Đại Ngộ bất câu ư tiểu tiết
  Mạc tương quản kiến báng thương thương
  Vị liễu, ngô kim vị Quân quyết”.

(Voi lớn đâu thèm đi lối thỏ
  Ngộ lớn sá gì chút tiết nhỏ
  Đừng nhìn trong ống biếm trời xanh
  Chưa tỏ, vì anh ta mở rõ). 

Tóm lại, việc thứ nhất : có Đức Phật truyền trao Tấm Bản Đồ chỉ đường chính xác để trở về căn nhà xưa: Căn nhà Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Việc thứ hai : có Thiền Sư chỉ đường tắt trên Tấm Bản Đồ đi tới ngay Cửa Vào, lắm lúc các Ngài còn trao tận tay “chìa khóa” để mở cửa, nhưng nếu không có chìa khóa thì hành giả phải tự phá nát cửa mà vào! Việc thứ ba: là tự hành giả phải LÊN ĐƯỜNG : độc hành độc bộ mà đi và đi với Chánh Pháp tức là với “Tấm Bản Đồ Bát Nhã” của Phật và cái “Bí Quyết” của Thiền Sư để vào Cửa. Cùng một con đường và theo sát dấu chân của Phật, Tổ và Thiền Sư, hành giả có niềm tin vững chắc, đó là Chánh Tín và niềm tin này là “Mẹ đẻ của Chư Phật”. Chư Phật cũng nhờ niềm tin này mà đạt Đạo. Hành giả được xem là đã “Thấy Đạo”. Bây giờ mới bắt đầu phải Tu Đạo, vì có “Thấy Đạo” mới Tu Đạo như Thiền Sư Bổn Tịnh dặn dò:  

“Thấy Đạo mới Tu Đạo
  Chẳng thấy lấy gì Tu
  Tánh Đạo như Hư Không
  Hư Không Tu chỗ nào?”.

Cái Tu Đạo này là ở Tâm, là phải đạt đến “Tâm không”  cùng tần số với Tánh để nhập vào Tánh như Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khai thị: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Như vậy Đường Đi đã rõ bước, Cửa Vào cũng đã thông, chỉ còn có cái Tâm “Đa Sự” nên chưa lọt vào Cửa được, bởi vậy giai đoạn này là phải “TU TÂM” để nhập TÁNH. Chừng nào đạt tới cái Tâm không, Tâm thấu suốt Tâm, không còn “Bảy Sóng”, không có một vật lẳng lặng như Gương thì cánh “Cửa Rõ Vô Vi” từ từ mở ra ngộ nhập Vô Vi ( Mặt Trăng Thứ Hai), ngay đó nhảy thẳng vào Tánh, sấn ngược lên tới “đỉnh Tuyết Sơn” cũng là cái KHÔNG hay cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, du hí Tam Muội hay Niết Bàn vô trụ.
“Tứ sơn thiên bích vạn thanh tùng
  Liễu đắc đô lô nhất thiết không
  Hỷ đắc lư nhi tam cước tại
  Mạch kỵ đã sấn tận cao phong”.
(Bốn núi ngàn tường muôn bụi rặm
  Hiểu ra mới biết thảy đều không
  Mừng nay có được lừa ba cẳng
  Sấn ngược đường lên đỉnh tận cùng).
                        (Tuệ Trung Thượng Sĩ). 

Vậy thì hãy ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ với tấm bản đồ : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa của Phật. ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ học cái “Bí Quyết” (cái Tuyệt Cùng, cái Vô Vi) của Tổ và Thiền Sư Ngộ  Đạo chỉ con đường tắt, đọc được Tấm Bản Đồ,  phăng tìm ngay tận đầu nguồn, tận gốc ‘‘Cửa Vào’’ căn nhà Bát Nhã mà các Ngài đã để lại trong Tàng Kinh, luận thuyết hay thơ kệ vô giá ! ‘‘Độc hành độc bộ” mà đi phăng theo ‘‘dấu vết’’ của các Ngài, nhất là  ‘‘học đồ’’ thật kỹ theo từng ‘‘dấu chân’’ và ‘‘nét kiếm’’ của các Ngài khi các Ngài “sắp” thành Đạo, tư duy quán chiếu thật kỹ để khỏi bị lầm lạc, đạt tới niềm tin ‘‘Chánh Tín’’ rồi kiên trì nhẫn nhục “thao luyện”… ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ với cái‘‘Tâm không’’ không chấp dính với lục trần, cái Tâm‘‘Vô Niệm’’của Lục Tổ Huệ Năng, cái Tâm‘‘Vô Tâm’’của Thiền Sư Hoàng Bá, hay cái Tâm‘‘Vô’’của Thiền Sư Đức Sơn, cái Tâm ‘‘Phi Tâm’’vô ngã chủ , phi Phật, phi Thánh, phi phàm, phi vật : thuần đức, thiêng liêng, tinh khiết....Tiếp tục mồi Ánh Lửa Bát Nhã mà chính tay Đức Phật Thích Ca trao truyền cho Tổ Đại Ca Diếp ở Pháp Hội Linh Sơn, rồi truyền qua 28 đời Tổ Sư Tây Thiên  vào Trung Quốc với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma cho tới Lục Tổ Huệ Năng , Thiền Sư Huyền Giác …và vô số các Vị Thiền Sư Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam….
Nhìn theo gót chân các bậc Tiền Nhân, ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’  đi tìm Chân Lý Giải Thoát không nhất thiết phải là xuất gia hay tại gia, tuy xuất gia thì có nhiều điều kiện lợi hơn. Vào trong nhà chùa, trong tu viện, nhưng nếu nhà chùa hay tu viện bị biến chất, không có Đạo Giải Thoát thì đi du phương tìm Đạo nơi các Tòng Lâm (nhóm tu tập thể các Sa Môn, Đạo Sĩ hay Cư Sĩ sống ngoài thiên nhiên dưới những gốc cây trong rừng tùng ngày xưa ở Trung Hoa). Hoặc tự một mình vào rừng sâu tham cứu Đạo Lý dưới Gốc Cây Bồ Đề như Đức Phật Thích Ca, hoặc cất am  tranh nơi rừng hoang núi vắng như Thiền Sư Diệu Phổ, hoặc ở tại gia như gia đình Bằng Long Uẩn, Tuệ Trung Thượng Sĩ, hoặc đi tham vấn các Thiền Sư như Thi sĩ Tô Đông Pha, hoặc ngay cả đang còn làm việc tại quan trường như Triệu Biện. Điều Quan trọng là phải biết “Buông Bỏ” hoặc ít ra phải xem nhẹ việc đời, không để cho Thế Gian Pháp trói buộc: “Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm”.  

“Cũng vì ham muốn phải long đong,
   Ném quách mà ra khỏi bụi hồng.
   Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ,
   Một lần phủi giũ , một lần xong”.
                            (Tuệ Trung Thượng Sĩ). 

                  * Giới Luật  :
              Trên đường đi tìm Chân Lý Giải Thoát, dù là Sa Môn  xuất gia hay Phật Tử  Cư Sĩ  tại gia đều phải giữ Giới Luật Nhà Phật  một cách nghiêm túc. Bởi vì Đạo Phật là Đạo Trí Tuệ lấy Ba Giới Tụ Tịnh  làm căn bản để đạt Trí Tuệ Giải Thoát. Ba Giới Tụ Tịnh là Giới-Định-Huệ. Có Giới Luật nghiêm túc mới đạt được Chánh Định và khi đã Định thì Huệ phát. Giống như chiếc Đèn Dầu được che chắn bảo vệ thì Gió không thổi tắt, khi đó Đèn cháy tự nhiên và phát ra ánh sáng. Đèn Tâm cũng vậy, có Giới Luật che chắn thì ngũ dục thế gian không thể che mờ hay làm đen tối vẫn đục. Khi đó,Tâm Định lặng yên như Gương thì Tánh hiện bày, Trí Bát Nhã hay Phật Tánh chiếu sáng...
  Ngoài ra Giới Luật cũng rất cần thiết giữ cho Phật Pháp được trường tồn. Thời Mạt Pháp, Ma Chướng rất nặng nề phá hoại đời tu của nhiều Sa Môn Phật. Nhiều Vị bị Ma Chướng làm hại, đi lạc đường tu, nên khó phân biệt được Chân hay là Giả ! Ngay cả những Vị khá nổi tiếng, giảng Pháp xuất sắc, nhưng cũng chưa hẳn là Chân Tu hay là Người Ngộ Đạo. Bởi vì Ma cũng biết bắt chước Phật, Tổ hay Thiền Sư nói Pháp, nhưng lại dẫn dắt chúng sanh đi theo đường Ma, lạc đường theo Tà Pháp hay Ngoại Đạo, không phải Đạo Giải Thoát của Đức Phật Thích Ca ! Ma Chướng cũng có thể biến Chùa Chiền thành những ‘‘Ngôi Chợ Chùa’’ đầy ồn náo hội tụ nhiều thị phi của Thế Gian hoặc những “Siêu Thị Phật” hiện đại chuyên buôn Phật bán Tổ kinh doanh thương mại, làm chính trị, thích quyền hành, ham chức vụ tiền bạc ; còn việc tinh tấn tu hành theo Chánh Pháp để đạt Đạo Giải Thoảt thì xao lãng, lu mờ, mê tín, sai lệch…làm cho Phật Pháp suy đồi !

Do đó Giới Luật  của Phật đặt ra là để cứu các Sa Môn Phật khỏi bị sa lầy, tẩy sạch Ma Chướng trong Nhà Chùa, trả lại sự thanh tịnh trong sáng nhiệm mầu của Phật Pháp để cứu khổ và giải thoát chúng sanh. Theo lời Đức Phật dặn dò: “Sau khi Ta nhập diệt, hãy lấy Giới Luật làm Thầy!”. Một Vị Sa Môn trụ trì một Ngôi Chùa, vừa có Đạo Pháp theo đúng Chánh Pháp của Phật, vừa giữ Giới Luật nghiêm túc, oai nghi tế hạnh đầy đủ, không dính mắc Pháp Trần, không giữ tiền bạc của cải, sống cách  ly  không liên hệ bất chánh nam nữ, không kinh doanh thương mại, biết thiểu dục tri túc, lo tinh tấn tu hành, tham cứu kinh điển, thuyết Pháp độ chúng sanh, mặc dù có thể là chưa ngộ Đạo, nhưng cũng xứng đáng là Trưởng Tử của Như Lai vừa tự độ vừa dẫn dắt chúng sanh đi trên con đường Giải Thoát ! Một Ngôi Chùa dù nghèo hay là giàu, nhỏ hay là to, nếu có Vị Sa Môn là Trưởng Tử của Như Lai trụ trì, có đạo tràng thanh tịnh, Giới Luật nghiêm túc, không ô nhiễm Pháp Trần, không kinh doanh thương mại… người người từ Phật Tử cho đến Chư Tăng, Chư Ni với Tâm hoàn toàn thanh tịnh chỉ biết lo tinh tấn tham cứu Phật Pháp, hành thiền, tu niệm… thì đây đúng là “Chùa Phật”! Giới Luật vừa che chở bảo vệ Sa Môn Phật trên đường tu mà còn là thước đo có thể đánh giá hay xác định một Vị Thầy là chân tu, một Vị Sa Môn là ngộ Đạo thật hay là giả. Thật ra người ngộ Đạo không cần phải giữ Giới Luật mà tự nhiên không bao giờ phạm Giới, vì đạt được Phật Tánh thì không còn phạm Giới, vì Phật Tánh không có phạm Giới! Người đạt Đạo Giải Thoát có “Phật Tánh Giới” trong sáng như Viên Ngọc không một tì vết, có áo mặc là cả bầu trời với ‘‘mây ráng’’ phủ làm y che chở chúng sanh với lòng từ bi bao la. Có “bát thâu rồng” là cái đầu với Trí Tuệ Phật thâu tóm hết những phiền não vô minh hay tà ma lộng hành. Có chiếc “gậy giải cọp” là cái thân tứ đại tung hoành ngay nơi chốn hiểm hốc đi đến đâu là dẹp tan hết những điều hung dữ đem lại điều thiện lành an lạc. Có “hai dãy khoen vàng” là đôi môi khua lãnh lót, nói ra những lời vàng ngọc, mưa Pháp cứu độ chúng sanh. Người ngộ Đạo có “Phật Tánh Giới”, giữ cái thân này không phải vì tham sống mà vì nó là chiếc “gậy báu” của Như Lai, giữ nó để cứu chúng sanh phá mê khai ngộ, hoàn toàn vô ngã vị tha, không vì lợi cá nhân:
“Phật Tánh giới châu Tâm địa ấn
  Vụ lộ vân hà thể thượng y
  Hàng long bát, giải hổ tích
  Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch
  Bất thị tiêu hình hư sự trì,
  Như Lai bửu trượng thân tung tích”
(Phật Tánh giới, ngọc tâm sáng tỏ,
Trên mình mây ráng khoác làm y.
Bát thâu rồng, gậy giải cọp
Hai dãy khoen vàng khua lãnh lót
Phải đâu hư sự giữ làm vì
Gậy báu Như Lai dấu tự ghi)
                       (Thiền Sư Huyền Giác).
Đức Phật ngày xưa khi còn tại thế, mặc dù đã ngộ Đạo, đạt “Chánh Đẳng Chánh Giác”, đã có sẵn “Phật Tánh Giới” nên không cần thiết để có hay giữ Giới Luật. Tuy nhiên cách sống và sinh hoạt thanh tịnh tự nhiên hàng ngày của Ngài, xem ra giống như là Ngài luôn luôn giữ Giới Luật nghiêm túc. Ngoài việc du hành khất thực hay thuyết Pháp giảng Kinh. Ngài vẫn luôn ngổi Thiền, ly Pháp Trần, sống với “Phật Tánh Giới” trong sáng như Viên Ngọc không một tì vết! Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, khi chưa có duyên độ sanh, ngồi úp mặt vào vách đá suốt 9 năm, ly Pháp Trần, luôn sống trong Thiền Định. Cư Sĩ Bàng Long Uẩn cũng vậy, tuy gần Pháp Trần mà ly Pháp Trần, an trú nơi cái Không thanh tịnh… Do đó, người đi tìm Đạo Giải Thoát  phải biết giữ “Giới Luật” Nhà Phật nghiêm túc và thường xuyên thành nề nếp, ít ra là “Ngũ Giới” đối với Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia; còn đối với Người Xuất Gia như các Chư Tăng, là phải 250 giới… không thể sống phóng túng như người đời. “Giới Luật” là Thầy, giúp không bị sa ngã cám dỗ bởi Pháp Trần và Ma Chướng, còn giúp nhận định được một Vị Thầy là Thánh Tăng hay chỉ là  Phàm Tăng, Ngộ Đạo thật là giả…để từ đó theo học Pháp hay nương tựa.
              Một khi đã chứng Đạo và biết rõ những nguyên nhân trói buộc vào vòng luân hồi, Đức Phật đặt ra Giới Luật để đối trị. Hai nguyên nhân rất quan trọng mà người xuất gia phải lìa bỏ đầu tiên là “ái” và “dục”. Trong Nhị Thập Nhân Duyên (The Wheel of Life) ‘‘ái’’ nằm trong mắt xích thứ tám :

              1-Vô Minh(avidya, ignorance): sự mê mờ cuồng si của tâm thức.
              2-Hành(samskara, karma-formations): tánh hạnh thuộc về hoạt động tâm thức.
              3-Thức(vijana, consciousness): Căn Bản Thức hay Thức Thứ Tám.
              4-Danh sắc(namarupa, mentality and corporeality): những gì liên hệ đến Tâm  và Vật . 
               5-Lục nhập(sabdayatana, six sense spheres): Lục Căn(mắt tai mũi lưỡi thân ý) tiếp xúc với Lục Trần(sắc thinh hương vị xúc pháp).
               6-Xúc(sparsa, impression): Sự giao thoa giữa Căn, Trần và Thức.
               7-Thọ (vedana, feeling): Sự cảm thọ.
               8-Ái(sneha, craving): Sự ưa thích,  yêu quí không muốn rời xa.
               9-Thủ (upadana, attachment): Sự bám víu cố chấp.
              10-Hữu(bhava, process of  becoming): Sự hiện hữu của sinh mệnh.
              11-Sinh(jati, birth): Sự sinh thành, tạo tác
              12-Lão tử (jara-marana, decay and death): Sự già nua và  tử biệt.

              Do đó, đối với người xuất gia đi tìm Đạo Giải Thoát việc đầu tiên là phải cắt ‘‘ái” bởi vì “ái” là một trong 12 mắt xích trong Lý Duyên Khởi dẫn Nghiệp tái sanh, trói buộc vào vòng luân hồi : ‘‘Ái hà thiên xích lãng, bể khổ vạn trùng ba’’. Ngay chính Đức Phật Thích Ca đầu tiên đi tìm Đạo cũng phải cắt ái. Cắt ái nhưng thay thế bằng lòng “từ bi” cao thượng, rộng khắp và sâu sắc hơn nhiều .

             Còn về ‘‘dục’’, thì cõi Ta Bà là cõi Dục Giới, một trong những cõi Mê, lấy âm dương làm năng-sở nhị nguyên đối đãi sinh sinh hoá hoá. Năng là ngã năng, sở là ngã sở ; hai cái ngã này dính mắc đan quyện kết chặt vào nhau mà  duyên khởi ra trùng trùng, là cái ‘‘Ta’’ cột trói vào tha nhân hay cảnh giới ngoài Ta. Cõi Dục Giới lấy âm-dương là năng-sở tượng trưng cho‘‘dục’’, lấy ‘‘ái’’ tương tác đối đãi giữa âm-dương mà sinh Hữu. Trong vòng Luân Hồi Nghiệp Chướng, ‘‘ái’’ và ‘‘dục’’ kết hợp sinh ra thế giới vật chất và chúng sanh. Từ vật chất cho đến thập loại chúng sanh đều do sự tương tác âm-dương mà hiện hữu. Một cặp điện tử âm-dương electron-proton sinh ra một nguyên tử vật chất (atom) đầu tiên là Hydrogen, rồi theo Lý Duyên Khởi được nhìn thấy trong tiến trình cấu tạo vật chất: 2 nguyên tử Hydrogen (H) kết hợp với nhau thành 1 nguyên tử Helium (He), 3 nguyên tử Helium (He) kết hợp với nhau thành 1 nguyên tử Carbon (C), 4 nguyên tử Helium kết hợp với nhau thành 1 nguyên tử Oxygen (O)...cho đến Đồng (Cu), Chì (Pb), Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Bạch Kim (Pt)...hơn 110 nguyên tố hay nguyên tử trong vũ trụ hiện hữu. Rồi nhiều nguyên tử lại kết hợp với nhau (ái) khi đũ duyên sinh ra các phân tử đơn giản (simple molecules) như Nước (H2O), khí Carbonic (CO2)...rồi các phức hợp phân tử (complex molecules) như các khoáng vật đất đá...cho đến các phức hợp đại phân tử khổng lồ (huge complex molecules) như các Genes di truyền DNA (deoxyribonucleicacid)…Cứ như thế mà trùng trùng duyên khởi sinh ra hàng trăm hàng ngàn các hợp chất phức tạp khác thành thế giới vật chất: sơn hà đại địa…là Y-Báo. Cũng do âm-dương là biểu hiện của “dục”, lấy “ái” làm duyên tạo tác mà có chúng sanh người là Chánh Báo, rồi sinh tử nối tiếp trong vòng Luân Hồi. Nếu âm dương cách ly hay độc lập thì được Giải Thoát. Trong Cõi Dục Giới, cắt “ái”,  âm-dương cách ly không còn tương tác (vô tác) thì Y Báo và Chánh Báo tan hoại trở về Nhất Nguyên hay Chơn Nhất: “Sắc tức thị Không” thì được Giải Thoát ! Đây là qui luật âm-dương tương tác Nhị Nguyên của Dục Giới  do Nghiệp Chướng tương ưng. Người xuất gia đi tìm Đạo Giải Thoát sống trong cõi Dục dĩ nhiên là cũng phải chịu sự tác động bởi nguyên lý này. Ngay cái Thân Tứ Đại (Đất Nước Gió Lửa) cũng do âm-dương tạo tác trong luân hồi mà ra. Vậy muốn cắt đứt luân hồi ra khỏi Dục Giới là phải cắt ‘‘ái’’ và ly ‘‘dục’’. Chưa chứng Đạo thì hãy còn ở trong Nghiệp Dục Giới, Sa Môn Phật phải đặt nặng Giới Luật trong việc cắt ‘‘ái’’ và ly ‘‘dục’’ lên hàng đầu rồi mới bắt đầu tu tập. Do đó để giữ Giới Luật nghiêm túc, thì Chư Tăng không nên dùng người nữ làm Thị Vã. Nếu trường hợp bất đắc dĩ có người nữ là Thị Vã thì không được gần gủi cùng ăn cùng ở cùng làm việc sống chung với người nữ trong cùng một ngôi chùa hay một nơi rừng hoang núi vắng, nhất là trong một thời gian dài nhiều ngày nhiều tháng  nhiều năm (trừ những lúc sinh hoạt Phật Pháp)… Đức Phật ngày xưa rất nghiêm túc, không cho người nữ xuất gia, ngay chính người thân như bà di mẫu Ma Da hay công chúa Da Du Đà La. Nhờ ngài Thị Vã A Nan ba lần cầu khẩn van xin mới được. Tuy nhiên phải tuân theo Giới Luật rất nghiêm túc dành riêng cho người nữ…Thật ra, Đức Phật không phải là khắc khe khi đặt ra Giới Luật . Giới Luật đặt ra chỉ để bảo vệ người tu không bị các loài Ma Chướng làm hại, phá hủy cuộc đời tu. Nếu không giữ Giới, không cắt ái và ly dục, sống buông thả tự do phóng túng giữa nam và nữ là tạo nhân luân hồi thì dù có siêng năng đọc kinh niệm Phật ngồi Thiền hay giảng kinh thuyết Pháp thông suốt thì cũng chỉ là hình thức bên ngoài, là văn tự suông trống rỗng vì Tâm đã bị ô nhiễm đen tối không thể nhìn thấu suốt Tâm, chỉ sống ở trong Nghiệp và tạo thêm Nghiệp, không có con đường Giải Thoát… Trong thế giới Nhị Nguyên năng-sở cõi Ta Bà: âm và dương, nam và nữ, ta và người, Tâm và Cảnh…thì cái Ta “ngã năng” ưa thích vướng mắc hay ôm chấp (ái) với vô số cái “ngã sở” khác là cái “của Ta”. Dù chỉ là Bóng Trăng trên mặt nước, lên khỏi mặt nước là mất, không thể bắt lấy và giữ mãi được nhưng vì Mê nên cứ bắt lấy (ái)  để rồi bị lôi cuốn vào vòng luân hồi. Chẳng hạn như : của cải, tiền tài, vật chất, nhà cửa, danh vọng, quyền lực, sắc dục…chỉ là những Bóng Trăng, có bắt lấy hay bám víu (ái) chỉ làm cho Tâm Mê chạy theo Nghiệp, bị lún sâu vào vòng luân hồi. Do đó, muốn được Giải Thoát là phải “LY” : “Đối Cảnh vô Tâm mạc vấn Thiền”. Đối Cảnh (Cảnh là sở) vô Tâm (Tâm ở đây là năng) không dính mắc (là cắt ái ) thì không cần phải Thiền, mà tức là đang Thiền rổi.

                  Một Vị Sa Môn hay một Vị Thầy trụ trì cho rằng đã Ngộ Đạo mà không có “Phật Tánh Giới”, hoặc chưa Ngộ Đạo nhưng cho rằng Chân Tu mà không dứt được "ái" không lìa được "dục", có đủ thứ tham sân si không thua   người đời, phạm nhiều Giới Luật Nhà Phật như nói dối lừa đảo, miệng lưỡi đa chiều, gần gũi nữ giới, cống cao ngã mạn, nóng tính chửi mắng mang nặng khẩu nghiệp, tiền bạc mờ ám, lén lút làm những chuyện bất chánh…  phạm  cả Luật Pháp Thế Gian, thì chắc chắn đã bị loài Ma Chướng làm hại, khiến cho Vị này không còn Đạo Hạnh. Dù là mặc áo Phật, nói lời Phật, nhưng Tâm chỉ là Tâm Ma xão ngụy, không tránh khỏi Luật Nhân Quả. Thuở xưa, Tổ A-Nam nằm mộng thấy nhiều Sa Môn đã xuất gia nhưng lại lặn hụp trong bùn lầy hôi thối ở dưới chân cầu, trong khi nhiều Bạch Y Cư Sĩ lại thông thả đi trên cầu một cách ung dung tự tại. Khi thức dậy liền hỏi Phật. Đức Phật trả lời: không phải tất cả Sa Môn xuất gia đều giác ngộ thành Phật mà xuống Địa Ngục rất nhiều, và cũng không phải Cư Sĩ tại gia không có ai đắc Đạo mà đạt Đạo cũng rất nhiều…

               Do đó là Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia, nếu gặp chùa chiền bị nhiễm nặng Pháp Trần và các Sa Môn thì không có Đạo Pháp Đạo Hạnh không giữ Giới Luật Nhà Phật, chỉ biết chạy theo danh lợi tiền bạc, thì không cần phải đến để nương tựa Pháp hay tu tập mà ở tại gia tham cứu Phật Pháp Kinh Điển và tu tại gia là một điều tốt hơn cả .

 

 

 

 

 

 

              * Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia.
              Nếu chưa có duyên xuất gia ở chùa, tu viện hay thiền viện, nhưng đã
phát Tâm Bồ Đề tìm Đạo Giải Thoát, thì xem như đang ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ và với hành trang là Tấm Bản Đồ : Ma-Ha-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa của Chư Phật với cái “Bí Quyết” của Thiền Sư nơi cánh cửa "Vô Vi" …thì dù nhanh hay là chậm cũng phải tới đích ! Biết rằng ở chùa thì dễ cắt ái, ly Pháp Trần, không còn bận tâm đến tiền bạc danh lợi thế gian, Thân Tâm thanh tịnh, và chùa là Ngôi Tam Bảo có đầy đủ Phật Pháp Tăng , có Tăng đoàn hay bạn đồng tu hỗ trợ, rất thuận lợi cho việc học Đạo tinh tấn tu hành tìm Đạo Giải Thoát. Nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt nào đó nên chưa xuất gia ở hẳn trong nhà chùa được, hoặc chưa tìm được Minh Sư hay đã gặp được Minh Sư nhưng muốn tu tập độc lập theo lối Cư Sĩ tại gia… Mặc dù là tại gia nhưng cố gắng đoạn được Tham Sân Si, Ái Dục, Ngã Chấp, Thân Tâm thanh tịnh, có Bản Đồ của Phật làm kim-chỉ-nam, có Kiếm Thuật của Tổ chỉ con đường tắt…thì Đạo ngay trước mặt, không cần phải đi đâu xa có thể tạm mượn hai câu thơ trong bài thơ “Nhàn” của Thi Sĩ Nguyễn Công Trứ (tuy là Nho Gia nhưng có thể hiểu theo cách của Phật Gia) làm cách sống Đạo và tu Đạo một cách đơn giản nhẹ nhàng :

                                    “Thị tại môn tiền náo
                                      Nguyệt lai môn hạ nhàn”

          Nghĩa là trước cửa nhà là cái chợ đầy ồn náo bon chen thị phi danh lợi của Thế Gian , cửa sau nhà là Mặt Trăng thanh tịnh có thể hưởng nhàn hoặc xa lánh thế tục bụi trần hay hướng về Mặt Trăng thanh tịnh mà Tu Tâm dưởng Tánh.
             -Tại cửa sau nhà có thể sống Đạo với Ánh Trăng như thả lỏng Sáu Căn “nhàn khán” nhìn Trăng đang “tịch chiếu” trùm khắp Pháp Giới. Đâu đâu cũng có Trăng hoá Thân trùm khắp, nhất là hiện vô số Bóng rõ ràng trên Mặt Nước sông hồ. Khi Mặt Nước lặng yên như Gương thì không còn “năng, sở” Trăng và Bóng “bất nhị” vẫn không lìa “tịch”; vô số Bóng Trăng tuy là “sở chiếu” vẫn tương ưng với Thể Tánh thanh tịnh của Vầng Trăng “MỘT”: “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”! Cũng vậy, khi Tâm lặng yên như Gương thì Tâm trở về Gốc đạt đến Tâm Không,Tâm thấu suốt Tâm tận nơi đầu nguồn tới cửa Vô Vi, ngộ nhập Vô Vi thấy Tánh. Khi đó, “Mặt Trăng” trong Thân phóng quang “tịch chiếu” hoà cùng Pháp Giới khắp 10 phương làm Một : “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Thân bây giờ không còn là Thân mà là Đại Thân Đại Ứng hoà nhập trùm khắp 10 phương Pháp Giới làm Một, là Pháp Thân vi diệu !
             -Tại cửa sau nhà có thể thả lỏng toàn bộ Thân Tâm vào Hư Không với Sáu Căn hỗ dụng tương thông qua Nhãn Căn. Sáu Căn bây giờ chỉ còn Một là Nhãn Căn và Thân bây giờ không còn là Thân mà hòa nhập tan biến vào Nhãn Căn. Nhãn Căn bây giờ lại chính là Tâm Nhãn nhìn thấu suốt trùm khắp Hư Không. Cho đến khi cả Sáu Căn : mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp cận hòa nhập trọn vẹn vào Hư Không qua Tâm Nhãn tới cửa Vô Vi : vô sắc vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp…nghĩa là đạt đến Phi Tâm. Ngay đây, Nhãn Tâm đột biến : Trong con “Mắt Tâm” có Kiếm “Bát Nhã” của Phật, có Kiếm Thuật “Vô Vi” của Tổ trong cùng một sát na ứng hiện. Nhãn hoá thành Kiếm, Kiếm là Nhãn : Kiếm Bát Nhã chạm cửa Vô Vi lóe sáng như Kim Cương chém nát Hư Không chặt đứt tấm màn Vô Minh, mở toang con mắt Huệ thấy Tánh, Vũ Trụ Càn Khôn sụp đổ ! Tâm bây giờ không còn là Tâm, mà Phi Tâm hay Vô Tâm, nhưng là Đại Tâm Đại Ứng trùm khắp Hư Không vô biên:

“Tâm đồng HƯ KHÔNG giới
  Thị đẳng HƯ KHÔNG pháp
  Chứng đắc HƯ KHÔNG  thời
  Vô thị vô phi pháp”. 
                         (Tổ thứ 7: Bà-Tu-Mật,Vasumitra).
            -Tại cửa sau nhà cũng có thể để Tâm lặng yên, tùy cơ hoặc tập trung Sáu Căn hoặc thả lỏng Sáu Căn nương tựa vào Sự Vật (như tàng cây, đám mây, ngọn núi, tiếng gió thổi, tiếng suối reo...) bằng cái thấy hay cái nghe tự nhiên bình thản không khởi niệm, không chấp nơi hình tướng Sự Vật. Nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, Sự mà Phi Sự, Vật mà Phi Vật, nơi tột cùng của Sự Vật để đạt đến cái Phi vô tướng nơi cánh cửa Vô Vi, nhận ra cái "Riêng Sáng Hiện Bày Rõ Ràng" lọt vào "Mặt Trăng Thứ Hai" nhảy thẳng vào Tánh như Tổ Ca Diếp nhìn Cành Hoa Sen của Đức Phật Thích Ca giơ lên trong Pháp Hội Linh Sơn :"Niêm Hoa Vi Tiếu"...

            -Tại cửa sau nhà có thể đặt sự nghi tình vào Hư Không, cái Không, một chữ Vô hay là Như. Bởi vì Hư Không, cái Không, Vô hay là Như là cái Không Biết, không thể giải thích bằng văn tự hay ngôn ngữ thế gian nhưng lại vi diệu lạ thường. Tại nơi đây, mọi ý thức đều ngưng bặt, nhưng lại vô vi biến hóa : "Không tức thị Sắc". Sự nghi tình miên mật đến lúc chín mùi  đạt tới cửa Vô Vi thì Trí Bát Nhã có thể bật dậy khi đủ cơ duyên. Nhà bác học Archimède ngày xưa tìm ra áp suất dưới nước cũng gọi là sức đẩy Archimède,  nhờ sự nghi tình làm cho Trực Giác thức dậy khi Ông ngâm mình dưới nước nhiều lần. Sự nghi tình ở đây vi diệu hơn Trực Giác, vì nó vượt qua khỏi Trí Thế Gian ngộ nhập thẳng Trí Bát Nhã đạt bờ Giải Thoát...
            -Tại cửa sau nhà cũng có thể tư duy quán tưởng ngồi thiền thường xuyên dưới Ánh Trăng, cơ hội gặp một nhân duyên lớn hay có đủ nhân duyên đạt tới Vô Vi như trái cây đã chín chỉ gặp một cơn gió thoảng nhẹ là có thể chín rụng tự nhiên trên mặt đất, khi đó có thể ‘‘thấy sao Mai mọc’’ như Đức Phật Thích Ca đã từng thấy, và cũng khi đó cả Thân Tâm với Sáu Căn lặng sóng thì “Sóng trở về với Nước”, “Sắc trở về Không” cùng hòa với “Mặt Trăng Thật ” làm Một !

              Nói đến hai câu thơ của thi sĩ Nguyễn Công Trứ "Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn" nhìn Ánh Trăng hay Mặt Trăng Thật trên bầu trời với sự "Lặng Yên"  trong "Thiền Định" lắng Tâm để "Sóng về với Nước",“Sắc trở về Không”, Gương Tâm trong sáng dễ nhìn thấy Đạo là một trong những cách "Hành Trì" đơn giản. Trái lại, không nhìn Mặt Trăng Thật lặng yên trong Thiền Định mà chỉ nhìn "Bóng Trăng Động" phản chiếu dưới "Mặt Nước Động" với cái "Tâm Động" đang "Say Xỉn" quay cuồng theo cái Si Mê của thế gian như Lý Bạch, một nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường bên Trung Hoa để rồi phải chết theo cái "Lãng Mạn" của một nhà thơ say rượu khiến "Trí Tuệ" không còn "Minh Mẫn", Tuệ Giác trong Thiền Định không xuất hiện để nhìn thấy Đạo mà chỉ thấy Nghiệp Quả Luân Hồi với cái Tâm Mê "điên đảo" theo Nghiệp Lực. Thấy Trăng in đáy nước đẹp quá,liền nhảy xuống với bắt liền bị chết đuối. Người đời sau lập Đài nơi đó gọi là "Tróc Nguyệt Đài"(Đài Bắt Trăng). Lý Bạch là nhà thơ trí thức nổi tiếng, nhưng công danh lận đận, bị gièm pha và tù tội.... Ông chán đời, tư duy về lẽ sống trần tục ngắn ngủi như giấc Mộng ảo huyền mong manh, hưởng hoan lạc chẳng là bao nên mượn thơ rượu để quên đời.

             Lý Bạch viết : "Phù Thiên Địa giả vạn vật chi nghịch lữ. Quang âm giả bách đại chi quá khách. Nhi phù sinh nhược mộng.Vi hoan kỷ hà".  (Trời Đất là nơi quán trọ của vạn vật. Thời gian kia là khách đi qua của trăm đời.Cuộc sống phù du như giấc mộng. Tìm hoan lạc được là bao !). Trời Đất là nơi "Quán Trọ" của vạn vật : Mọi vật từ đất đá, cây cỏ, côn trùng, muông thú cho tới loài người là những khách "Lữ Hành" vân du ngàn dặm, tạm trú nơi cái "Quán Trọ" là Địa Cầu hay cõi Ta Bà một thời gian "Nhất Định" rồi tiếp tục cuộc "Hành Trình". Thời gian kia là khách qua đi của trăm đời: Lâu dài như Đất Đá thường trú vài tỷ năm rồi cũng "hóa thân" cùng Địa Cầu tan rã thành "bụi khí" tiếp tục cuộc hành trình trong Không Gian. Ngắn ngủi như loài "Phù Du" tạm trú 24 giờ rồi vội vã ra đi. Khách "Muỗi", nghỉ ngơi nơi Quán Trọ 7 ngày rồi cũng lên đường. Sư Tử, 15 năm. Rùa Galapagos, 170 năm. Khách "Người" là "Hạng VIP" nhưng chỉ đăng ký "Quán Trọ"  khoảng trăm năm .Cuộc sống phù du như giấc  mộng: Dù khách giang hồ là côn trùng, muông thú hay loài người, thì cuộc sống như Huyễn Mộng qua đêm thật ngắn ngủi so với cái Thường Hằng "vô thuỷ, vô chung" của cái "Hằng Sống" vô tận ! Tìm hoan lạc được là bao : Hoan Lạc, Hạnh Phúc kiếp người được là bao khi cái Huyễn Mộng ngắn ngủi kia lại còn phải trải qua quá trình "Sinh, Bệnh, Lão, Tử" và "Bát Khổ", khổ khổ, hành khổ, hoại khổ mà bất cứ chúng sinh nào đều cũng phải bước qua trước khi rời cái "Quán Trọ" Ta Bà để tiếp tục cuộc hành trình dài vô tận theo qui luật Luân Hồi Nhân Quả . Tiếc rằng Lý Bạch chạy trốn cuộc đời phù du đầy phiền não của một kiếp người bằng cách ôm Bóng Trăng trong "Ảo Giác" lúc say rượu mà chết, không tìm thấy con đường Giải Thoát trong sáng để đến với Đạo !

            Tóm lại, tùy theo căn cơ trí tuệ hoàn cảnh điều kiện của hành giả mà có nhiều cách để tìm Đạo Giải Thoát ngay cửa sau nhà. Nếu chưa có đủ duyên hay nội lực để đạt Đạo ngay trong một kiếp như Đức Phật, các Tổ và Thiền Sư, thì tại cửa sau nhà nếu tư duy quán tưởng ngồi thiền thường xuyên thì chẳng những không còn tạo Nghiệp mà Nghiệp còn được hóa giải hoặc tiêu trừ. Vì Thiền Định giống như Chiếc Máy Sàng Lọc Tâm, lắng đọng sàng lọc vô hiệu hóa nhiều Nghiệp Chướng Vô Minh chất chứa từ vô số kiếp làm cho Tâm trong sáng là Nhân tốt cho đời sau để thấy Tánh...và đạt Đạo Giải Thoát.

            Tu tại gia cũng là một điều tốt, cũng có đủ Kinh Điển sách vở, băng cassette, video, đĩa dvd…Với khoa học hiện đại ngày nay, ngồi tại nhà cũng có thể nghiên cứu Kinh Điển hoặc nghe Phật Pháp đủ loại với điện thoại hay máy vi tính (nếu cần) qua các websites trong internet, hoặc đơn giản như người xưa chỉ cần một vài quyển Kinh liễu nghĩa là đủ ! Tại nhà cũng có thể tụng kinh niệm Phật, ngồi Thiền, tư duy quán chiếu hoặc cuốc đất, trồng rau ,tưới hoa, gánh nước, bửa củi… trong trạng thái vô Thiền mà Thiền, gần Pháp Trần mà ly Pháp Trần, tại gia mà ly gia, ái mà ly ái như Cư Sĩ Bàng Long Uẩn, Tuệ Trung Thượng Sĩ hay Triệu Biện… Tại nhà cũng như ở chùa hay nơi rừng sâu núi vắng cũng đều có cái Không trùm khắp và cái Không này là ngôi Tam Bảo rốt ráo có  đủ Phật Pháp Tăng : Phật mà phi Phật, Pháp mà phi Pháp, Tăng mà phi Tăng, cả Phật Pháp Tăng đều là Không…

            Đối với chùa chiền, tu viện, thiền viện, nếu có Vị chân tu trụ trì hay bất cứ Vị Tăng hay Ni nào mặc dù chưa  ngộ Đạo nhưng có Đạo cao Đức trọng, có Chánh Pháp, có Đạo Hạnh, có Giới Luật nghiêm túc, không ô nhiễm Pháp Trần, có đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, …thì Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia có thể lui tới học hỏi, tu tập hay bổ khuyết những điều gì chưa biết hay chưa hiểu rõ về Phật Pháp vì những nơi này có đủ ngôi Tam Bảo : Phật Pháp Tăng đúng nghĩa rất quý và đáng trân trọng có thể làm nơi nương tựa ! Nếu Vị  trụ trì là người ngộ Đạo, thì đây quả thật là cơ duyên lớn, dù rừng sâu núi thẳm xa cách khó đi cũng cần phải đến để được thọ giáo.

                    Còn đối với chùa chiền, tu viện, thiền viện bị biến chất không có Đạo Giải Thoát, các Vị Sa Môn không có Đạo và cũng không còn giữ "Giới Luật" Nhà Phật, thì Phật Tử hay Cư Sĩ không cần phải đến mà vẫn rộng đường tu. Ngoài cách tu tại gia với Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” của Chư Phật, và cái “Bí Quyết” của Thiền Sư, sống Đạo với Ánh Trăng: “Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn”,  Phật Tử hay Cư Sĩ có thể du phương như một Kiếm Khách Giang Hồ mang Gươm Tuệ đi tìm Chân Lý.  Nơi nào có Đạo thì đến luyện Kiếm, không Đạo thì vác Kiếm độc hành hoặc ghé vào các Tòng Lâm ‘Luận Kiếm’ cùng Thiện Hữu Tri Thức, sống dưới gốc cây trong rừng tùng như người xưa đã từng làm. Hoặc cất am tranh một nơi thanh tịnh bất cứ nơi nào gần hoặc xa nhà hay một nơi rừng sâu núi vắng, độc hành độc bộ với Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” của Chư Phật và Kiếm Thuật “Bí Truyền” của Thiền Sư… Khi đó, dù là Phật Tử , Cư Sĩ, ngay cả Người Xuất Gia ‘Không Chùa’ hay những Kiếm Khách Giang Hồ vô danh… lấy “ Màn Trời Chiếu Đất” làm Chùa, “Hư Không Vô Biên” làm Ngôi Tam Bảo! Chính Đức Phật Thích Ca đã thành Đạo trong Ngôi Chùa Hư Không vĩ đại này! Đêm đêm ‘So Gươm’ dưới Màn Trăng, ngày ngày ‘Luyện Kiếm’ giữa Mặt Nhựt, lấy Hư Không là bạn đồng hành, Nhựt Nguyệt làm đèn Tâm soi chiếu vạn Pháp đồng điệu với cái Không rỗng suốt trùm khắp 10 phương Pháp Giới… Có thể theo lời khuyên của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, lấy Thân làm Chùa, đồng với Ngôi Chùa Hư Không, nơi thanh tịnh địa, xa lìa Tam Độc (tham sân si), tịnh Sáu Căn, Thân Tâm vắng lặng như Hư Không. Không cần phải đúc vàng, tạc ngọc làm Tượng Phật, mà phỏng theo Chân Dung diệu tướng của Như Lai : lấy Thân làm Lò Đúc, lấy Pháp làm Lửa, lấy Trí Tuệ làm Tay Thợ Khéo, lấy Ba Giới Tụ Tịnh - Sáu Ba La Mật làm Khuôn Đúc, nấu chảy và rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Thân thành hình tượng của Chân Dung, là Pháp Thân thường trụ vi diệu. Trong khi dụng Thân làm Ngôi Chùa, nơi thanh tịnh địa có đủ ngôi Tam Bảo : Phật Pháp Tăng đều Như hay là cái Không trùm khắp, cũng như trong khi dụng Thân làm Lò Đúc chất Chân Như Diệu Tánh của Như Lai, thì cái cửa Vô Vi có thể “chợt” xuất hiện hay “từ từ” mở ra là cái“Riêng Sáng Hiện Bày Rõ Ràng” (cách nói của Thiền Sư Lâm Tế), nó ở trong Thân, ở ngoài Thân bao trùm khắp cả Pháp Giới và Hư Không ! Thân bây giờ không còn là Thân, tan trong Cái Sáng hoà cùng Pháp Giới làm Một.  Kiếm Bát Nhã lộ tướng Bát Nhã : “Sắc tức thị Không” trở về Thể Tánh “Không” không có một vật. Kiếm hoá thành Người, Người thành Kiếm; Kiếm là Người, Người là Kiếm tung hoành trong cái Không. Rồi Kiếm và Người cả hai cùng mất hoà nhập trong cái Không, mở toang con mắt Bát Nhã loé sáng như kim cương, hiện bày cái Ánh Sáng vi diệu trùm khắp Pháp Giới. Có thể gọi cái Ánh Sáng này là cái Sáng Rõ, Ánh Rõ là Ánh Sáng của Tánh, Tự Tánh,Phật Tánh hay của Viên Ngọc Ma Ni. Thật ra nó có ba trạng thái : cái Sáng Rõ, cái Trong rồi tới cái Không mới là rốt ráo. Nhưng cũng chẳng phải là ba, ba mà là một, nhưng một cũng là ba tùy theo đứng trong Nghiệp hay là ở trong Tánh. Ngài Lâm Tế dặn dò rằng với cái Sáng Rõ hay cái “Riêng Sáng Hiện Bày Rõ Ràng” này chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn.  Trong cái Sáng Rõ có Cái Rõ là Mặt Trăng Thứ Hai là ngay cửa Vô Vi, còn bám trên Sự Vật và Hư Không tuy là đang ở nơi “tuyệt cùng” của Sự Vật và Hư Không, đang ở nơi cuối “đầu sào trăm trượng” hay cuối đường Tâm nhưng chưa đạt đến Phi Tâm. Chừng nào cả Sự Vật và Hư Không sụp đổ, đều là Không : ‘‘Sắc tức thị Không’’thì Cái Sáng Rõ, Cái Trong, đạt tới cái rốt ráo là Không, vượt qua cửa Vô Vi hay “đầu sào trăm trượng” ngộ nhập Vô Vi cũng là cái Không, là cái mà Cư Sĩ Bàng Long Uẩn đã ngộ nhập và Ông luôn luôn sống với cái Không, gửi cả thân tâm vào Không, trở thành một Đạo Nhân “nhàn”, không còn lo ngại việc sinh tử ! (xem bài thơ vịnh cái Không của Cư Sĩ Bàng Long Uẩn). Thật ra cái Sáng Rõ hay cái “Riêng Sáng Hiện Bày Rõ Ràng”  xuất hiện rồi lại mất là do hành giả chưa thật sự ngộ nhập vào cái Sáng Rõ (hay cái Vô Vi) mà chỉ mới đứng ngoài cửa, gần sát với nó nên có thể cảm nhận được nó . “Cái Sáng Rõ” này ở trong Thân lẫn ngoài Thân và trùm khắp, làm cho cả Thân Tâm an lạc lạ thường, Trí Tuệ sáng suốt minh mẫn ! Tuy nhiên vẫn chưa phải là ngộ nhập, mà chỉ mới “đứng gần ở ngoài cửa”. Nó có thể hiện diện trong nhiều giờ, nhiều ngày hay nhiều tháng…nhưng rồi bỗng nhiên lại mất ! Tại sao mất ? Thiền Sư Lâm Tế chỉ rõ : ‘‘Chỉ vì tình sinh trí cách, tưởng dấy thể sai.’’. Tức là vì còn bám víu vào Pháp Trần tạo Nghiệp, chấp ngã hoặc cống cao ngã mạn, chưa đến nơi mà tự cho là ngộ đạo, rồi từ bỏ Giới Luật, dan díu Pháp Trần nên Sáu Căn bị ô nhiễm, không tiếp tục con đường tu để đạt đến chỗ rốt ráo, cho nên chẳng những mất Đạo mất đi một đời tu mà còn có thể bị đọa vào ba đường ác ! Do đó phải tiếp tục “Chăn Trâu” cho đến lúc “Trâu Đen” trở thành “Trâu Trắng” hoặc đến được đất “Tào Khê ” mới thực sự là an toàn !

                                     "Một mình giữ một con Trâu Đất
    Xỏ mũi đem về chẳng ngớt chăn
    Đem đến Tào Khê mà thả quách
    Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”.  
                                                                          (Tuệ Trung Thượng Sĩ). 
Mục đích rốt ráo của Thiền là Kiến Tánh như Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khai thị: “Trực chỉ nhân Tâm, Kiến Tánh thành Phật”. Kiến Tánh hay Thấy Tánh là ngộ nhập vào Thể Tánh Chân Như, là Pháp Thân, là Niết Bàn, là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa… vượt thoát luân hồi, không còn sinh tử! Nó có nhiều tên, cũng gọi là cái Không, Hư Không, cái Một, Chơn Nhất, Bản Tế, Bản Tánh Di Đà hay Đại Thủ Ấn… Thiền Sư thường gọi là Viên Ngọc Ma Ni thể hiện cho Tánh và Ánh Sáng của Viên Ngọc tỏa ra thể hiện cho Chân Tâm hay Tâm Gốc. Là Thể và Dụng phân biệt thành hai, nhưng thật ra Viên Ngọc và Ánh Sáng của Viên Ngọc vẫn là Một. Khi Ngộ Đạo, cái Ánh Sáng này luôn luôn ở bên mình, ở trong thân và ngoài thân, trùm khắp mọi Sự Vật và Hư Không. Ánh Sáng này thì Phi Vật Chất, là Linh Quang vi diệu. Nó không phải là “nhân điện”hay“tĩnh điện”do các âm điện tử (electrons) vật chất trong cơ thể  con người hay “điện tích” (charges) tích tụ nơi não bộ hay “điện não” tạo ra cảm giác mà là Ánh Sáng của Bát Nhã hay Phật Tánh phát quang khi Thân Tâm hoàn toàn thanh tịnh, “Sóng Trần” hay “Sóng Nghiệp” hoàn toàn lặng yên nơi Đáy Tâm hay trong A-Lại-Đa-Thức. Khi nhập Thiền, ly Pháp Trần, nó càng hiện diện sâu thẫm, Thân Tâm an trú nơi Niết Bàn hòa nhập cùng Cái Sáng thành Pháp Thân vi diệu trùm khắp mười phương… Khi Phật còn tại thế mượn xác phàm để hóa độ chúng sanh, Ngài vẫn thường ngồi Thiền để trở về an trú nơi Niết Bàn vô sanh. Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, khi chưa gặp duyên độ chúng, Ngài ngồi úp mặt vào vách đá, xa lìa Pháp Trần, nhập Định từ Cái Sáng của “Viên Ngọc Ma Ni” đi sâu vào Thể Tánh thanh tịnh là cái Không trong suốt rỗng rang không có một vật: cái “ Rỗng Thênh Không Thánh” nhưng lại vô vi biến hóa, vi diệu lạ thường! Cư Sĩ Bàng Long Uẩn cũng luôn an trú nơi cái Không, Ông diễn tả nó qua bài thơ vịnh Cái Không: (Đừng kinh ngạc vì Cái Không rất Không. Vì Cái Không là chỗ ngồi của Chư Phật…). Thiền Sư Nguyên Thiều, Ngài khai thị về Cái Sáng hay Cái Không khá lộ liễu cho các Chư Tăng lần cuối trước khi thị tịch trả lại cái xác phàm giả tạm (Đất, Nước, Gió, Lửa) cho Thế Gian, hòa nhập vào Cái Sáng hay Cái Không. Cái Sáng hay Cái Không này tuy hai mà là một, tuy một mà là hai, nói cách nào cũng đúng. Nói là hai vì Cái Sáng là đầu cầu dẫn đến cái sâu thẫm rốt ráo là cái Không. Nói là một, vì Cái Sáng và Cái Không cách nhau không xa, ngay Cái Sáng cũng chính là Cái Không trùng lặp quyện vào nhau. Cũng như Viên Ngọc và Ánh Sáng của Viên Ngọc là Một, có Viên Ngọc mới có Cái Sáng của Viên Ngọc, nhận ra Cái Sáng của Viên Ngọc tức là thấy được Viên Ngọc vì Viên Ngọc Ma Ni thì rỗng rang trong suốt không có một vật hay bất cứ một tì vết nào nên không có thể thấy! Cái Sáng hay Cái Không này cũng chính là chiếc Gương Tâm rộng lớn đồng với Hư Không vô biên hay Viên Ngọc Ma Ni không hình không tướng không ảnh trong sáng rỗng rang trùm khắp soi chiếu khắp mười phương; là Pháp Thân vi diệu, Niết Bàn vô trụ hay Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa…
“Tịch tịch Kính vô ảnh               
   Minh minh Châu bất dung          
   Đường đường vật phi vật           
   Liêu liêu không bất  không”. 

  (Lặng lặng Gương không ảnh
   Sáng sáng Ngọc  không  hình
   Rõ ràng vật không vật
   Rỗng rang không chẳng không).
                                                Thiền Sư Nguyên Thiều ( Việt Nam).

Tóm lại, chỉ khi “ngộ nhập” được Cái Sáng Rõ, Cái Không hay Cái Vô Vi thì mới đạt đến Vô Sanh mà không còn sợ bị Pháp Trần hay Vô Minh Nghiệp Chướng làm ô nhiễm :

“Minh minh thường tự tại,
                                    Diệc niết mục tác quái.
                                    Kiến quái bất kiến quái,
                                    Kỳ quái tất tự hoại”.
                                   (Rõ ràng thường tự tại
                                    Cũng dụi mắt làm quái
                                    Thấy quái chẳng thấy quái
                                    Quái ấy ắt tự hoại). (Vua Trần Thánh Tông).

               Đường kiếm “Tuyệt học Vô Vi”của Thiền Sư Huyền Giác quả thật  lợi hại, chẳng kém  lưỡi kiếm “Vô” sắc bén của Triệu Châu hay thanh gươm “Vô niệm” thần kỳ của Lục Tổ Huệ Năng : múa Kiếm Thần xé nát Hư Không, tịnh Sáu Căn phăng dấu Tổ tìm vết chân Phật, diệt Ngã Sở hòa cùng Biển Lớn, soi Gương Tâm khơi lại đầu nguồn tới cửa Vô Vi. Ngay đây chém đứt Vô Minh, nhảy thẳng vào đất Như Lai mở toang con mắt Huệ thấy Tánh ! Đây là con đường tắt mà Kiếm Khách Giang Hồ nơi nơi có thể “thao luyện” với Lưỡi Gươm “Bát Nhã” linh diệu, nét Kiếm “Vô Vi” tuyệt vời mà Thiền Sư Huyền Giác  đã vẽ từng nét rõ ràng trong Chứng  Đạo Ca :

                                 “Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
  Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
( Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
  Một nhảy thẳng liền đất Như Lai).  

Trường hợp của Cư Sĩ Triệu Biện là khá đặc biệt, nhưng cũng từ cái cửa Vô Vi ấy nhảy thẳng liền Đất Như Lai. Ông ngồi yên lặng suối lòng không động như nước trong , đã rất nhiều lần tất cả Sáu Căn thanh tịnh nhưng lần này quả đã chín đạt được gần sát chỗ rốt ráo là “Niệm Không” hay “Vô Niệm” là tận đầu nguồn Tâm tới cửa Vô Vi . Tiếng sấm nổ cửa lòng chợt mở, tiếng sấm là chất xúc tác là cơ duyên bên ngoài hỗ trợ làm cho cả Thân Tâm Ông nhảy qua khỏi cửa Vô Vi , vượt qua khỏi ‘‘đầu sào trăm trượng’’ trực nhập Đất Như Lai…Là Cư Sĩ nhưng thật ra còn dính với đời khá nhiều. Bởi vì Ông là một Đại Quan dưới triều Tống phải chăm lo nhiều việc của thế gian, là tục gia, đệ tử của Thiền Sư Tương Sơn Pháp Tuyền. Nhân một hôm quan sự  rảnh rỗi, ngồi nghỉ ngơi tại công đường, bỗng nhiên khi nghe tiếng sấm nổ bên tai, tức thì hoát nhiên đại ngộ, Ông liền làm bài kệ:

“Mặc tọa công đường hư ẩn kỷ,
   Tâm nguyên bất động trạm như thủy
   Nhất thanh tịnh lịch đỉnh môn khai,
   Hoán khởi tùng tiền tự gia để ”. 
  (Ngồi lặng công đường luống tựa ghế,
   Suối lòng không động như nước trong
   Nghe sấm nổ cửa lòng chợt mở
   Này, lão đang ngồi ở Quê Nhà). 

Đối với Triệu Biện, đã có Tâm Tìm Đạo từ trước. Ông là một vị quan thanh liêm trọng Đạo Lý, có cái Tâm thuần đức, thanh khiết, lại có sẵn tấm bản đồ Đạo Lý trong tay.Tuy làm quan lớn, nhưng danh vọng tiền tài không buộc trói được Ông, làm việc chỉ vì lợi ích cho chúng sinh, chúng sinh đang cần Ông, khó thay thế được. Mặc dù vậy, sự đời vẫn làm Ông bận rộn, là những đám mây Vô Minh che tối  “Hang Tâm” của Ông. Tuy nhiên, những đám mây này đôi lúc cũng có “Khe Hở” và cũng lúc đó cả Sáu Căn của Thân Tâm Ông đang nghỉ ngơi thả lỏng bất động như mặt nước trong, tiếng sấm nổ bất chợt ngay lúc đó như một giọt nước tràn ly, làm cho cả Thân Tâm với Sáu Căn  hổ dụng đồng loạt thức dậy một lượt, tạo một năng lượng siêu việt xuyên qua “ Khe Hở” của tấm màn Vô Minh xé toạc bức màn này ngộ nhập Bát Nhã.  Cái  “xé toạc” tấm màn Vô Minh nầy để ngộ nhập Bát Nhã cũng giống như cái “vạch tét cửa mặt” nhận ra ngay cái che đậy Càn Khôn tức thì nắm lấy, vượt khỏi cả căn và trần như Thiền Sư Quế Sâm khai thị : 

“Tạt phá diện môn 
   Cái phú Càn Khôn
   Quyết tu tiến thủ,
   Thoát khước căn trần”.  
  (Vạch tét cửa mặt,
   Che  đậy Càn Khôn.
   Hẳn phải tiến lấy,
   Vượt khỏi căn trần).  

   Phật, Tổ và các Thiền Sư dường như không có TU gì cả mà chỉ “ĐI TÌM CHÂN LÝ” và tìm ngay Cái Gốc, ngay tận Đầu Nguồn chứ không tìm nơi Ngọn: 
“Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
  Chọn lá tìm cành ta chẳng đương”.
                             (Thiền Sư Huyền Giác).
Các Ngài thương chúng sanh để ở trên đầu, dặn dò cặn kẽ: Đạo ngay trước mặt, không cần phải đi đâu xa, như Thiền Sư Sư Bị đã khai thị:  “Tột 10 phương thế giới là một hòn Minh Châu, ngươi hội để làm gì?”. Ngài chỉ thêm: “ Giống như người ngồi trong biển cả nước ngập lút đầu, còn đưa tay hỏi người xin được nước uống”. 
Đạo đang ở trùm khắp, nơi nào cũng có: “Mở mắt ra là thấy Đạt Ma”. Ngay cõi TA BÀ đã là cõi Cực Lạc hay Niết Bàn, chính Đức Phật Thích Ca đã chứng ngộ và thành Phật ngay cõi Ta Bà này, cũng như các vị Tổ và vô số các vị Thiền Sư ngoại hạng… 

“Biển sâu nước khỏa cũng bằng
  Mây tan gió tịnh Bóng Trăng sáng lòa
  Cõi TA BÀ có tòa CỰC LẠC,
  Dòng sông MÊ biển GIÁC chẳng xa
  Y theo giáo pháp THÍCH CA
  Tự nhiên BẢN TÁNH  DI ĐÀ phóng quang”.
                                                             (Sám Thảo Lư).   
Đạo Lớn đang ở trùm khắp cả Hư Không và ở ngay trên sự vật : từ hạt bụi, hạt nguyên tử cho đến vũ trụ bao la !!! 

“Ba ngàn thế giới tay sờ đụng,
  Mắt chẳng nhìn ra bởi Trí Mù”. 
  
TRÍ MÙ  bởi vì TÂM MÊ. TÂM MÊ là một cơn ĐẠI MỘNG có đủ sáu ngã luân hồi .TÂM NGỘ là KHÔNG; là VÔ TRỤ NIẾT BÀN; là “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” ...

 

NGỘ THÂM

MICHIGAN ,  August 24th, 2011

--- o ---

HẾT

 

--- o ---